Văn miếu Quốc Tử Giám

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Kính thưa quý khách, điểm đến tiếp theo trong chuyến du lịch đầy ý nghĩa “Hà Nội – những dấu ấn vàng son” của chúng ta hôm nay sẽ là Văn Miếu Quốc Tử Giám – Nơi thờ Khổng Tử, trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.

Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại la, lập lên kinh đô Thăng Long – đế đô muôn đời.

Để xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ và hưng thịnh cần phải có hệ thống triết học làm nền tảng, một thể chế tổ chức xã hội vững mạnh và một nền giáo dục tiên tiến để đào tạo nhân tài cho đất nước.

Đáp ứng nhu cầu đó, nhà Lý đã chọn Nho giáo, một học thuyết chính trị, đạo đức đã ra đời trước thời đó hơn 1500 năm, đã góp phần to lớn tạo lập nên nước Trung Hoa trật tự, kỷ cương với nền văn hoá phát triển rực rỡ và đã được du nhập vào nước ta từ lâu.

Sự kiện mở đầu cho quá trình lựa chọn đó được trịnh trọng ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư :“Năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ hai (1070) đời Lý Thánh Tông, mùa thu, tháng Tám, dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tượng Thất Thập Nhị hiền, bốn mùa cúng tế. hoàng Thái Tử đến học ở đó”. Năm 1075 mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài và năm 1076 vua Lý Nhân Tông đã cho lập Quốc Tử Giám – Ban đầu đây là trường học dành riêng cho con em trong hoàng tộc, con em các vị đại thần quan lại trong triều đình, sau mới mở rộng đến đến các tầng lớp nhân dân bên ngoài.

Trước khi vào thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám, chúng ta hãy cùng dừng lại bên tấm bia nhỏ, tuy nhỏ nhưng nó ghi lại một tập tục rất giàu ý nghĩa: “Cả hai tấm bia đều mang hai chữ “Hạ Mã” và được đặt ở trong toà miếu này. Trước tiên, tấm bia khẳng định: Chỗ này là cột mốc đánh dấu từ đây trở đi chúng ta có địa giới, có giới hạn của một vùng đất thiêng rất đáng quý trọng. Thứ hai, đặt ra một yêu cầu đối với mọi người về việc bày tỏ tấm lòng tôn kính của mình với nơi thiêng liêng này và sự nể trọng của mình đối với nơi trung tâm của Hà Nội – Thăng Long nghìn năm văn hiến. “Hạ mã” tức là dù quyền cao chức trọng đến đâu, cao sang đến đâu, khi cưỡi ngựa qua đây thì đều phải xuống ngựa.

Bây giờ, chúng ta hãy cùng vào thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám bao gồm Hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám.

• Hồ Văn
Trước mặt Văn Miếu là Hồ Văn với diện tích 12.247m2, giữa hồ có gò Kim Châu, trên gò có dựng Phán Thuỷ đường, là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa. Nhà Phán Thuỷ nay không còn nhưng trên gò hiện còn lại một tấm bia dựng năm Tự Đức 18 (1865) trong dịp tu sửa Văn Miếu và nạo vét Hồ Văn do Hoàng giáp khoa Tân Hợi, bố chánh Hà Nội Lê Hữu Thanh soạn. Sau này, trong thời Pháp thuộc, Tứ Trụ bị chia cắt với Hồ Văn bởi phố Quốc Tử Giám chạy ngang, như quý vị đang nhìn thấy. Và do điều kiện thời gian không cho phép, điểm đến chính của chúng ta hôm nay sẽ là khu nội tự Văn Miếu Quốc Tử Giám, còn khu Hồ Văn xin được hân hạn giới thiệu tới quý vị vào một dịp khác.

• Khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Quý khách đang đứng trước “Văn Miếu – Quốc Tử Giám” – Kiến trúc chủ thể của di tích. Chúng ta thường gọi chung chung công trình này là Văn Miếu Quốc Tử Giám, nhưng đây thực chất là hai công trình được xây dựng vào hai thời điểm khác nhau. Công trình thứ nhất – Văn Miếu chính là nơi thờ Văn Tuyên Công hay là Văn Tuyên Vương, chính là Khổng Tử, được Lý Thánh Tông cho xây dựng vào năm 1070. Lý Thánh Tông là Lý gia đệ tam đế – phụ hoàng của Lý Nhân Tông (Lý gia đệ tứ đế). Và chính Lý Nhân Tông là người cho xây công trình thứ 2 – Quốc Tử Giám năm 1076. Do đó chúng ta có một tổ hợp kiến trúc vừa để thờ Khổng Tử, vừa để làm trường Đại học đầu tiên của nền văn hóa và khoa học dân tộc chúng ta. Ghép lại thành Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám được chia làm 5 khu rõ rệt, song liên hoàn với nhau theo một tổng thể kiến trúc hài hoà qua trục đường thần đạo nối từ đầu đến cuối khuôn viên. Khuôn viên có chiều dài 31 thước, chiều rộng 46 thước. Mặt chính của công trình quay về hướng Nam theo quan niệm “Thánh nhân Nam diện nhi trị thiên hạ” (bậc Thánh nhân quay mặt về phương Nam để cai trị thiên hạ).

Khu tiền án là khoảng không gian mở ra phía trước tạo cho Văn Miếu dáng vẻ bề thế, uy nghi. Khu này được bắt đầu bằng tứ trụ (nghi môn) và hai tấm bia Hạ Mã ý nghĩa ở hai bên mà chúng ta vừa thấy.

Quý khách đang đứng trước “tứ trụ” – Cổng chính của Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Trước đây tứ trụ nằm soi bóng xuống mặt Hồ Văn trong xanh theo quan niệm phong thuỷ Á Đông “âm – dương đối ngẫu” thường được thể hiện ở các kiến trúc tôn giáo. Tứ trụ xây bằng gạch, hai cột giữa xây cao hơn, trên có hình hai con nghê chầu vào. Nghê là con vật biểu trưng mang yếu tố huyền thoại, dũng mãnh, thiên biến vạn hóa, tượng trưng cho trí tuệ, là biến thể từ sư tử và chó dữ, có sức mạnh như chúa tể muôn loài. Quan niệm tâm linh cho rằng đây là con vật linh thiêng có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện. Hai trụ ngoài đắp nổi hình bốn con chim phượng xoè cánh chắp đuôi vào nhau. “Nghê chầu phượng múa” là một môtif trang trí quen thuộc thường được thấy ở các đình miếu cổ thể hiện sự thiêng liêng và vẻ hoa mỹ của di tích quý giá. Những câu đối đề ở Tứ Trụ đều có ý nghĩa ngợi ca đạo học trong chốn nhân gian:

“ Cao vững mấy tầng chở chuyên biết bao đạo lý
Ngóng trông vạn thưở nguy nga một trốn học đường”
“Đông, tây, nam, bắc tư do đạo
Công khanh, phu sĩ, xuất xuất thử đồ”

Kính thưa quý khách, qua cổng Tứ Trụ, quý khách đang bước trên đoạn đầu của con đường thần đạo – đoạn nối giữa tứ trụ và tam quan.

Tam quan Văn Miếu – Quốc Tử Giám cao 2 tầng, 8 mái mở ra ba cửa biểu trưng cho cách nhìn của nhà Phật về 3 thế giới quá khứ – hiện tại – tương lai. Trên cổng Tam Quan có ba chữ đại tự “Văn Miếu Môn”, đỉnh đắp hình “lưỡng long chầu nguyệt” – một motif trang trí rất có ý nghĩa và khá quen thuộc tại các công trình kiến trúc cổ của Việt Nam. Có rất nhiều cách giải thích khác nhau cho hình tượng nghệ thuật độc đáo này. Rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hoá, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam, là linh vật đứng vào hàng bậc nhất trong tứ linh “long, ly, quy, phượng”. Rồng tượng trưng cho sự phồn vinh và sức mạnh của dân tộc, cho uy quyền tuyệt đối của đấng thiên tử, của nhà nước phong kiến, trang trí rồng chỉ dùng ở những nơi trang trọng như cung vua, các công trình lớn của quốc gia hay các công trình tôn giáo. “Lưỡng long tranh châu” gồm hai con rồng nằm ngang hai bên, ở giữa là “quả cầu lửa” mà theo một số nhà nghiên cứu là “viên ngọc”. Dó đó, nó còn được gọi là “Rồng giỡn hột châu”, hoặc là “mặt trời” (nên gọi là lưỡng long chầu nhật), biểu hiện cho sức mạnh vương giả với chí khí tranh hùng tranh bá.

Bên cạnh đó, hình tròn có ngọn lửa còn được giải thích là tượng trưng cho sấm sét, nguồn nước, bản thân rồng cũng gắn liền với mây mưa, mang đến mùa màng tươi tốt. Và như vậy, lưỡng long chầu nguyệt còn biểu trưng cho tín ngưỡng cầu mưa của người Việt – những cư dân nông nghiệp.

Điểm đặc biệt trong motif trang trí “lưỡng long chầu nhật” của người Việt đó là viên ngọc không hoàn toàn chạm vào miệng rồng và rồng không ngậm nó. Viên ngọc là biểu trưng cho nhân văn, tri thức và lòng cao thượng. Điều đó cho thấy dân tộc ta luôn coi tri thức là vô hạn, những đức tính tốt đẹp là điều luôn phải học hỏi, rèn giũa. Đây là điểm khác biệt đối với trang trí rồng – ngọc của Trung Hoa. Rồng Trung Hoa luôn giữ viên ngọc ở chân thể hiện ý muốn làm chủ. Đây phần nào thể hiện sự khác biệt giữa hai nền văn hoá.

Chính nhờ vẻ đẹp cân đối cùng với ý nghĩa sâu xa mà “lưỡng long chầu nhật” trở thành một đề tài trang trí rất phổ biến tại các công trình kiến trúc cổ tại Việt Nam và quý khách sẽ gặp lại nó trong nhiều hạng mục khác của di tích này.

Phía trước cổng tam quan là đôi rồng đá cách điệu thời Lê, bên trong là đôi rồng đá thời Nguyễn. Hai đôi rồng đó là hình tượng biểu trưng cho truyền thống tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta: Các nho sĩ sau khi học thành tài, ra giúp đời, thành danh, quay trở lại thể hiện lòng tôn kính, biết ơn đối với thầy của mình.

Bên trái cổng tam quan đắp hình “long ngư tụ hội” (cá rồng ẩn hiện trong mây) ví như cảnh thanh vân đắc lộ của các nho sinh thành tài. Bên phải là cảnh mãnh hổ hạ sơn (hổ lớn hùng dũng xuống núi) ngụ ý như những bậc thứ giả vững bước vào thời cuộc mới.
Hai mặt cổng tam quan đều đắp nổi câu đối chữ Hán với ý nghĩa đề cao kết quả của sự học trong chốn nhân gian. Có câu mang đại ý:

1. Áo mũ xênh xang nhà cửa bá quan như nước chảy
Tam quan bề thế học đường bao lớp tựa núi cao

2. Đại quốc bất dịch giáo, bất biến tục, thả tôn sùng chi, diệc tín tư văn nguyên hữu dụng
Ngô nho yêu sthông kinh, yếu thức thời, vô câu cố dã, thượng tư thánh huấn vĩnh tương đôn
(Nước lớn không thay nền giáo hoá, không biến đổi phong tục màtôn sùng đạo nho và tin tưởng tư văn vốn có ích.
Nhà nho phải thông hiểu kinh sách, phải thức thời, không nên câu nệ, cố chấp, nghĩ rằng lời giáo huấn của thánh hiền mãi mãi được đề cao).

3. Sỹ phu báo đáp vị hà tai, triều đình tuyển cựu tri ân, quốc gia sùng thượng chi ý.
Thế đạo duy trì thị thử nhĩ, lễ nhạc y quan sở tuỵ, thanh danh văn vật sở đô.
(Bậc thánh nhân phải báo đáp như thế nào ân tuyển chọn của triều đình, ý tôn sùng của quốc gia.

Thế đạo phải duy trì như thế đấy, phải thấy nơi này là lễ nhạc, y quan, là nơi tập trung thanhdanh văn vật).

Cổng chính của tam quan chỉ được mở cho các bậc môn quân đi trong các dịp đại lễ. Các môn sinh và thứ dân chỉ đi bằng hai cửa nhỏ hai bên.

Khu nội tự của Văn Miếu thiêng liêng được ngăn cách với không gian bên ngoài bằng hệ thống tường gạch vồ vững chãi và chia thành năm lớp không gian khác nhau. Mỗi lớp không gian lại được giới hạn bởi một bức tường gạch chạy hết chiều ngang và có cửa thông nhau. Năm khu tương ứng với ngũ hành (kim – mộc – thủy – hỏa – thổ) theo quan niệm sự phối tác năm yếu tố cơ bản hình thành lên vũ trụ của triết học phương Đông cổ truyền.
Quý khách đang ở lớp không gian đầu tiên giữa tam quan và cửa Đại Trung được gọi là “khu nhập đạo”. Nơi đây có hai khuôn hồ lớn ở vị trí như hai ao mắt rồng tại các khu đình chùa vùng nông thôn Bắc Bộ. Đường thần đạo chính giữa dẫn vào cửa chính của cửa Đại Trung. Song song với đường thần đạo là hai lối nhỏ dẫn thẳng đến hai cửa nhỏ nằm hai bên phải và trái của cửa Đại Trung mang tên cửa Thành Đức và cửa Đạt Tài với ý nghĩa sâu xa là đạo học sẽ đào tạo môn sinh thành những con người toàn diện có cả đức và tài, có khả năng đem tài đức ra thi thố trong xã hội để phục vụ triều đình và chúng dân muôn nhà. Trong năm lớp không gian của khu Văn Miếu Quốc Tử Giám, không gian khu nhập đạo mà quý khách đang đứng đây có cảnh quan môi trường tươi đẹp và thoáng đạt nhất. Bao gồm một hệ thống cây cổ thụ có tuổi đời vài trăm năm tuổi, các loại cây cho bóng mát và cho hoa nở suốt bốn mùa xuân, hạ , thu, đông. Cửa Đại Trung gồm ba gian, xây trên nền gạch cao, mái lợp ngói mũi hài, có hai hàng cột chống hiên trước và hiên sau, ở giữa là hàng cột chống nóc. Cửa sơn màu đỏ biểu trưng cho sự thành đạt và may mắn

Qua cửa Đại Trung, chúng ta sẽ đến với lớp không gian thứ ba của Văn Miếu Quốc Tử Giám được tiếp nối bởi gác Khuê Văn và hai cửa nhỏ Bí Văn và Súc Văn ở hai bên. Bí Văn và Súc Văn hàm ý ca ngợi những vẻ đẹp của văn chương: Súc tích, trau chuốt và sáng sủa.
Gác Khuê Văn là lầu gác tám mái một nóc, thể hiện điểm cực dương, được xây dựng vào năm 1805 dưới thời Nguyễn Gia Long do quan tổng trấn Bắc thành – Nguyễn Văn Thành chỉ đạo thiết kế thi công. Gác được xây trên nền vuông cao lát gạch Bát Tràng, với kiểu dáng kiến trúc khá độc đáo: Tầng dưới là bốn trụ gạch, bốn bề trống không, tầng trên là kiến trúc gỗ hai tầng, mái lợp ngói ống, trang trí bốn góc bằng đất nung. Sàn gỗ chừa ra một khoảng để bắc thang lên gác, bốn cạnh có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn mặt gác trổ bốn cửa sổ tròn xung quanh có những thanh gỗ con tiện tượng trưng cho những tia của sao Khuê tỏa sáng.
Tuy ra đời không cùng thời với các hạng mục khác trong Văn Miếu Quốc Tử Giám song như quý khách thấy, kiến trúc gác Khuê Văn rất hài hòa với tổng thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám và từ lâu đã trở thành một điểm nhấn kiến trúc thu hút sự chú ý của du khách trong và ngoài nước.

Ba chữ đại tự “Khuê Văn Các” được đề cả ở mặt trước và sau của lầu gác. Xung quanh gác Khuê Văn đều có đề những đôi cấu đối ca tụng vẻ đẹp và ý nghĩa của đạo học và văn chương trong trời đất. Đại ý:

“Sao Khuê sáng giữa trời nhân văn rạng tỏ
Sông Bích đượm sắc xuân đạo học dài lâu”

“Đời thịnh tô điểm nền văn trị
Lầu gác lộng lẫy lưu giữ vẻ đẹp”

“Khuê Văn” theo cách lý giải truyền thống về thiên thể là tên một ngôi sao trong chòm sao sáng nhất của bầu trời gồm 28 ngôi gọi là nhị thập bát tú. Trong sách “hiếu kinh” có ghí: “Sao Khuê chủ về văn chương, văn học, giáo dục, khoa cử”. Cho nên đặt công trình có tính chất biểu trưng, biểu tượng này vào đây, nội dung tư tưởng hoàn toàn phù hợp với Văn Miếu và Quốc Tử Giám. Về mặt vật thể thì những đường nét kiến trúc và kiểu dáng kiến trúc cũng hoàn toàn hài hòa ăn nhập vào bối cảnh chung của vùng này. Hình mặt trời tượng trưng cho đạo học và những gì thiêng liêng cao cao quý.

Gác Khuê Văn xinh xắn, kiến trúc giản dị, tao nhã, soi mình duyên dáng xuống mặt nước Thiên Quang Tỉnh tức giếng Ánh Sáng Mặt Trời càng làm tăng thêm vẻ đẹp của nó.
Giếng Thiên Quang hình vuông, có lan can gạch bao quanh, quanh năm nước đâỳ, mặt nước phẳng lặng, vừa tạo một nhịp tiếp nối kiến trúc hài hòa nơi trung tâm cho tổng thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám, vừa có ý nghĩa như một hồ nước điều hòa không khí. Và giếng Thiên Quang còn đóng vai trò một mặt gương thiên nhiên rộng lớn và sáng tỏ. Theo quan niệm của người xưa, giếng hình vuông tượng trưng cho mặt đất xanh tươi, cửa sổ hình tròn của Khuê Văn Các và các tia sáng xòe rộng xung quanh tượn trưng cho mặt trời rực rỡ. Hàm ý nơi đây là chốn hội tụ tinh hoa của trời đất, ngụ ý đề cao một trung tâm văn hóa giáo dục lớn nhất và danh tiếng nhất của đất nước.

82 bia tiến sỹ ở hai bên khu vực này thực sự là kho tàng vô giá lưu trữ không chỉ là tên tuổi của những người đã đỗ đạt trong các khoa thi thời nhà Lê hơn ba trăm năm, mà nó còn là nơi giữ gìn và biểu đạt cả hệ thống tư tưởng và văn hóa của nước Việt Nam trung cổ và cổ truyền. Trong đó có cả tư tưởng mà đến tận bây giờ tất cả mọi người đều khâm phục, đó là lời của Thân Nhân Trung viết theo lệnh của vua Lê Thánh Tông, khắc trên tấm bia khoa thi năm Đại Bảo 1442 : “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Điều đặc sắc là những hàng bia ấy soi trên mặt Thiên Quang Tỉnh (Giếng ánh sáng trời). Các sỹ tử cũng như các quan khách từ ngoài vào trong khu chính này đều phải đi qua đây. Và họ phải soi bóng mình xuống tấm gương này để lấy ánh sáng trời “thiên quang” để chỉnh đốn tư tưởng của mình, cũng như là lấy luôn làn nước xanh này làm nơi sửa sang lại y quan áo mũ cho chỉnh tề. Lấy ánh sáng trời mà rèn tạo, thanh lọc những điều gì không xứng đáng ở trong mình trước khi vào nơi thiêng liêng quan trọng nhất ở trong kia.

Vườn bia :
Khu vực vườn bia là một di tích có giá trị bậc nhất ở đây, gồm 82 bia, dựng ở 2 bên phải trái của Thiên Quang Tỉnh, mỗi bên có 41 tấm bia dựng thành hàng nằm ngang quay mặt về phía giếng ( 82 tấm bia này để ghi khắc họ tên, quê quán của 1307 vị tiến sĩ…).

Ý tưởng dựng bia ghi tên các tiến sĩ được khởi sự từ đời Lê Thánh Tông (1484) – một vị hoàng đế tài cao, học rộng quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa dân gian của dân tộc và các đời vua kế tiếp đã cho dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giam nhằm mục đích biểu dương các Nho giáo sĩ đỗ đạt và khích lệ việc học hành thi cử. Ở hai khu vườn bia, mỗi bên có một tòa đình vuông, bốn mặt bỏ trống, nền cao giữa các bệ, cửa đều trông thẳng xuống giếng. Đây là hai tòa đình thờ bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý tính cao danh còn khắc trên bia đá. 82 tấm bia tiến sĩ là những di vật quý giá, có giá trị bậc nhất của di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giam, là niềm tự hào của nền văn hóa giáo dục dân tộc đã tạo nên và lưu giữ được một pho “ Sử đá” có giá trị về mọi mặt. 82 tấm bia tiến sĩ là 82 phong cách điêu khắc, tuy kích thước khác nhau nhưng bia nào cũng được dựng trên lưng một con Rùa, cổ ngẩng cao, bốn chân xoài ra trong tư thế đang bò lên. Theo một số cách giải thích thì trong quan niệm của người Việt Nam thì Rùa từ xa xưa đã gắn với đất nước Việt Nam : Đó là thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa, trong truyền thuyết Hồ Hoàn Kiếm, Rùa còn là sứ giả của Thủy Vương giúp Lê Lợi đại phá quân Minh… Rùa là con vật được hợp lại bởi cả âm và dương : bụng phẳng tượng trưng cho đất mang yếu tố âm, mai khum tượng trưng cho trời đất – mang yếu tố dương. Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa là chịu đựng và sống lâu vĩnh hằng. Bia đá dặt trên lưng Rùa nhằm khẳng định sự trường tồn của trí tuệ, của tinh hoa dân tộc. Đồng thời đó cũng là tấm gương nhắc nhở cho con cháu hôm nay và mai sau cùng học tập, phấn đấu theo gương ông cha ta thuở trước. 82 tấm bia ghi tên 1805 nhân vật, trong đó có 17 trạng nguyên, 19 bảng nhãn, 47 thám hoa, 284 hoáng giáp và 938 tiến sĩ.

Qua văn bia, ta biết rõ được họ tên của các tiến sĩ mà ngày nay danh tiếng vẫn còn lưu truyền mãi như : nhà sử học Ngô Sĩ Liên – tiến sĩ năm 1442; nhà sử học, nhà quân sự, chính trị, văn hóa, nhà thuật học tài năng lỗi lạc Lê Qúy Đôn – khoa thi năm 1752, nhà ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm tiến sĩ khoa 1775…người đầu tiên được khắc tên trên bia đá là trạng nguyên Nguyễn Trực người xã Bối Khuê, huyện Thanh Oai, Hà Tây, đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tuất niên hiệu Bảo Đại thứ Ba (1442) đời vua Lê Thánh Tông. Người cuối cùng được ghi trên bia đá là tiến sĩ Phạm Huy Ôn vào khoa thi Kỷ Hợi (1779) và cũng là khoa thi cuối cùng được dựng tại bia Văn Miếu – Quốc Tử Giam. Về sau, vào thời vua Gia Long và trong kinh thành Phú Xuân – Huế. Nhìn vào hai vườn bia, ta nhận thấy sự khác nhau giữa các bia – đó là do ở mỗi thời kỳ được khắc lại có những nét kiến trúc riêng cho mỗi loại : Những tấm bia được khắc vào thế kỷ 15 ( 14 chiếc) có trán bằng, mỏng, thấp, có hình hoa lá mây trăng, có ảnh hưởng của tam giáo Đồng nguyên. Trang trí hoa sen – ảnh hưởng của Phật giáo, con Rùa đầu hình chim, mắt có lông mày, mồm như mỏ chim, đầu ngẩng cao, đôi khi có răng, mai trơn, chân rụt lại. Những tấm bia được khắc vào thế kỷ 17 (25 chiếc). Trên bia có xuất hiện sừng tê, ngưu bát bảo ( Đạo giáo), bia có hình mặt nguyệt , kích thước cao. Có thể nói nghệ thuật chạm khắc ở đây đã tiến cao hơn một bậc. Bố cục cân xứng. Những tấm bia loại ba được xây dựng vào thế kỷ 18. Bia to cao, trang trí cách điệu nghệ thuật thì khô cứng, duy nhất có một tấm bia chạm khắc hình người và trâu, rùa có giống đầu Rùa thật, mai cong vồng lên, có gò sống lưng chạm hình sáu cạnh.Ngoài ra còn một số bia ngoại lệ, không thuộc phong cách nào cả.

* Đại Thành Môn:
Qua cửa Đại Thành là khu vực thứ 4 của Văn Miếu – đây chính là khu vực thờ Khổng Tử và các bậc hiền triết, bao gồm Đại Thành, nhà Bái Đường và hai dãy Đông Vũ và Tây Vũ.
Cửa Đại Thành ba gian với hai cột hiên trước và sau giống nhau như cửa Đại Trung, một hàng giữa đỡ xà nóc, ba gian đều được lắp cửa gỗ sơn đỏ trên có họa tiết rồng, mây. Gian giữa treo bức hoành phi đề ba chữ “ Đại Thành Môn”. Cửa Đại Thành là cửa của sự thành đạt lớn lao mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính mang một cái tên đầy ý nghĩa về học vấn, đạo đức.

Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng lát gạch Bát Tràng. Hai bên chân là hai dãy nhà Tả – Hữu vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường lớn, rộng và thâm nghiêm, trải suốt chiếu rộng nối với đầu hồi của Tả – Hữu vu tạo thành hình chữ U rất cổ kính và truyền thống. Sau Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện bằng một tiểu hình vuông. Nếu tách riêng ba cụm kiến trúc này ra thì chúng được

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#dẫn