văn hoá kinh doanh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
mối quan hệ, địa vị hay thành tích của những người đề đạt chúng và khuyến khích mọi người trình bày ý kiến trực tiếp cho lãnh đạo cấp cao.

Chín là, hãy giao cho nhũng người làm nhiệm vụ quản lý giải quyết một số vấn đề thuộc những lĩnh vực khác nhau thay vì những lĩnh vực thuộc trách nhiệm trực tiếp của họ và tạo điều kiện cho nhân viên có cơ hội được học hỏi những kinh nghiệm của người khác. Kết quả đem lại sẽ là tinh thần học hỏi trong công việc, sự cảm thông và tình đoàn kết được nâng cao.

Mười là, hãy tập trung vào bản chất của vấn đề thay vi những điều tất yếu.

Mười một, phải có một kế hoạch chiến lược tổng thể, thay vì một kế hoạch hay những phương hướng chung chung trong đài hạn. Hãy sử dụng kế hoạch chiến lược đó như một chuẩn mực chứ không phải kinh thánh, sau đó vận dụng một cách nhanh nhẹn và linh hoạt các hoạt động trong phạm vi của kế hoạch đó.

Mười hai, để có được một vị trí rõ ràng và chấp nhận được trên thị trường, doanh nghiệp phải chuẩn bị tinh thần bỏ qua một số cơ hội sinh lời và rồi bỏ những phân đoạn thị trường không quan trọng.

Mười ba, phải khiêm tốn, dễ gần và có đạo đức. Hãy lãnh đạo bằng sự tận tụy, không được tham lam, vun vén cho cá nhân, không phân biệt đối xử, hãy công bằng, chắc chắn, nhưng đừng bao giờ nhỏ mọn, hãy vui vẻ, gần gũi với mọi người, biết tha thứ lỗi lầm, chấp nhận mạo hiểm và chia sẻ những hy sinh.

Mười bốn, phải luôn nhớ rằng sứ mạng của các tập đoàn cung cấp là phục vụ mọi người ở tuyên sau, chứ không phải ở phía sau.

4. Văn hóa doanh nghiệp trong quản lý con người

Là một người có kinh nghiệm trong việc tạo dựng văn hóa doanh nghiệp, Herb Kelieher đã đưa ra 11 yếu tố trong quản lý nhân viên cần chú ý có liên quan đến văn hóa của doanh nghiệp, đó là:

Một là, hãy tuyển dụng những người có thái độ tốt hơn là những người có thái độ xấu (kể cả người đó có kinh nghiệm, bằng cấp cao và có chuyên môn hơn hẳn).

Hai là, đào tạo mọi người trong 2 lĩnh vực: Kỹ năng lãnh đạo và phục vụ khách hàng.

Ba là, phải có một đại diện khách hàng ở vị trí quan chức cấp cao nhất trong doanh nghiệp. Người này sẽ lễ được cập nhật về mọi kế hoạch và ý tưởng có ảnh hưởng tới các khách hàng từ bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp.

Bốn là, để cho mọi người được là chính mình trong công việc, thể hiện chân thực tính cách của mình mà không phải đeo mặt nạ công sở hay phải lo lắng về những điều lặt vặt liên quan đến nghi thức, thủ tục trong doanh nghiệp.

Năm là, luôn chào đón ngay lập tức những thành quả mà nhân viên của doanh nghiệp đạt được tổ chức kỷ niệm những cột mốc quan trọng trong đời sống riêng của mỗi nhân viên để đính hôn, đám cưới, sinh nhật, sinh con và nhiều dịp lễ khác... quan tâm chia sẻ với nhân viên khi họ ốm đau hay khi mất đi người thân, gặp biến cố hay những tai họa khác trong đời. Nói tóm lại, hãy trân trọng các nhân viên của mình theo khía cạnh là những con người bình thường chứ không phải chỉ là cấp dưới của mình.

Sáu là, phác họa rõ ràng về những gì mà doanh nghiệp dự định sẽ làm và lý do đưa mọi người tham gia vào công việc đó, chứ đừng để họ chỉ là những người đứng ngoài, hãy cao thượng hóa mục đích mà doanh nghiệp hướng tới.

Bảy là, giải quyết từng vấn đề của nhân viên một cách riêng rẽ, kịp thời và cụ thể, thậm chí một vấn đề tinh thần cũng cần quan tâm đối với những người có liên quan.

Tám là, thông qua các hình thức nêu .gương, các buổi lễ chúc mừng và những hình thức giao tiếp để thề hiện sự coi trọng những trường hợp xuất sắc cả về tinh thần lẫn hành động, tạo dựng niềm tự hào về thành tựu đạt được cùng với tấm lòng luôn luôn nghĩ tới người khác, hãy nhớ rằng những giá trị vô hình khó bắt chước có ý nghĩa quan trọng hơn rất nhiều so với những giá trị hữu hình có thể mua được.

Chín là, các vị trí và chức đanh đều không quan trọng, chất lượng quản lý mới là điều có ý nghĩa hơn hết. Bất kỳ ai, đang đảm nhận cương vị hay chức danh nào cũng có thể là một nhà lãnh đạo qua hành động của mình.

Mười là, giao tiếp bằng tình cảm quan trọng hơn nhiều so với giao tiếp bằng lý trí và những cuộc trò chuyện thân mật cũng quan trọng chẳng kém gì những buổi nói chuyện nghiêm trang. Hơn thế nữa, việc truyền đạt các mục đích, ý nghĩa, cảm xúc, cảm hứng và tình cảm cũng quan trọng như việc trình bày về các số liệu và sự kiện.

Mười một là, nếu anh không nhiệt thành với những việc anh đang làm và cũng như không nhiệt thành với những người đồng sự, anh sẽ không thể thắp sáng được tâm trí họ, sưởi ấm trái tim họ và thúc giục họ cống hiến vì một lý tưởng chung

Những dấu hiệu suy yếu trong môi trường văn hóa doanh nghiệp

Khi được hỏi rằng tài sản lớn nhất của doanh nghiệp là gì, đa số các Giám đốc cấp cao đều có cùng một câu trả lời đó là con người! Thế nhưng, phản hồi từ các nhân viên cấp dưới lại cho thấy dường như các nhà quản lý của doanh nghiệp chưa thật sự thực hiện đúng với phương châm này.

Trên thực tế, theo nghiên cứu của Fecllity Stevens and Mark Di Somma - hai chuyên gia tư vấn về xây dựng nhãn hiệu, marketing chiến lược và giao tiếp có đến 70% nhân viên của các doanh nghiệp không cảm thấy vui vẻ khi làm việc. Nghiên cứu của Stevens và Somma cho thấy có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, các nhân viên thấy không được đánh giá cao và tôn trọng nên họ chỉ được xem như là một công cụ, một nguồn lực của doanh nghiệp. Thứ hai, họ cảm thấy phải làm việc trong một môi trường văn hóa không có sức sống. Có những dấu hiệu dưới đây cho thấy văn hóa doanh nghiệp đang bị suy yếu.

1. Nhân viên không biết được tiền đồ của doanh nghiệp

Dù làm việc ở bất cứ vị trí nào, nếu không biết được doanh nghiệp sẽ đi về đâu thì các nhân viên khó có thể làm việc với sự hứng thú, tích cực và sáng tao. Thay vào đó, họ chỉ biết chấp nhận với hiện tại nên doanh nghiệp cứ bị giậm chân tại chỗ. Để khắc phục tình trạng này, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp can phải thường xuyên cập nhật cho các nhân viên những thông tin sau:

• Doanh nghiệp sẽ hướng đến những mục tiêu nào?

• Làm thế nào để đi đến những mục tiêu đó?

• Từng nhân viên sẽ đóng vai trò như thế nào trong việc thực hiện các mục tiêu?

• Làm thế nào để biết được doanh nghiệp đã đạt được các mục tiêu?

2. Các nhân viên có cách tiếp cận vấn đề và giải quyết các công việc không giống nhau

Đó là trường hợp mỗi nhân viên suy nghĩ và diễn giải các nguyên tắc, quy định của tổ chức theo cách của riêng họ. Khi được hỏi tại sao lại làm như vậy, họ chỉ đơn giản trả lời rằng vì được làm điều đó. Vấn đề ở đây là các nhân viên thiếu sự hướng dẫn và kiểm soát từ các nhà quản lý cấp cao.

3. Thiếu sự tin tưởng lẫn nhau giữa nhà quản lý và các nhân viên

Nguyên nhân thường là do hệ thống quản lý theo chiều dọc với nhiều cấp bậc gây ra. Các nhà quản lý thì xem việc lãnh đạo là thực thi quyền lực, trong khi các nhân viên xem các nhà quản lý như những "kẻ thù địch". Một nguyên nhân khác là không có sự công bằng trong việc khen thưởng, tệ hơn là sự phân chia lợi ích của doanh nghiệp bị nghiêng về quyền lợi của các nhà quản lý. Ngoài ra, sự bất tín của các nhân viên còn xuất phát từ lý do doanh nghiệp thường đối xử với họ như là những "công dân hạng hai". Cần lưu ý rằng khách hàng thì có thể tìm lại những nhân viên tài giỏi và trung thành với tổ chức.

4. Nhân viên phải làm theo những kế hoạch bất ngờ và thiếu tính nhất quán

Họ đột nhiên được thông báo phải làm theo những kế hoạch nào đó mà không hề được giải thích, thậm chí có kế hoạch còn hoàn toàn trái ngược với những gì mà họ đã được thông báo cách đó không lâu. Khi bị đối xử như vậy, các nhân viên sẽ không thể làm việc chủ động, sáng tạo, mà cứ phó mặc cho mọi chuyện muốn ra sao thì ra.

5. Xuất hiện nhiều tin đồn không chính xác

Một khi các thông tin nội cấp cho toàn thể nhân viên không được cung cấp cho tàon thể nhân viên một cách công khai, đầy đủ và kịp thời, sẽ có nhiều tin đồn xuất hiện, gây ra nhiều thiệt hại, xáo trộn không lường trước được cho tổ chức.

6. Nhân viên cảm thấy hình ảnh của doanh nghiệp chưa được quảng bá đầy đủ và chính xác

Khi làm việc cho một tổ chức, nhân viên sẽ cảm thấy hình ảnh cá nhân của mình cũng gắn liền với hình ảnh của tổ chức. Vì vậy, nếu hình ảnh của doanh nghiệp không được mô tả chính xác trước công chúng, nhân viên sẽ cảm thấy bất mãn. Khi các nhân viên phản ánh rằng hoạt động, chương trình quảng cáo không nói lên được doanh nghiệp là ai thì điều đó có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, chẳng hạn Công ty quảng cáo chưa hiểu được doanh nghiệp và yêu cầu của doanh nghiệp, thời điểm quảng cáo chưa thích hợp, các nhân viên chưa hiểu hết ý đồ của các chương trình quảng cáo...

7. Nhân viên chẳng có ấn tượng gì về các Giám đốc cao cấp

Đó là khi các nhà lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp, do vô tình hay cố ý, đã tạo ra một khoảng cách với các nhân viên. Doanh nghiệp chỉ có môi trường văn hóa mạnh, tạo được sự gắn kết giữa các nhân viên với nhau khi các Giám đốc cấp cao hiểu được rằng nhiệm vụ của họ không chỉ là đem về những lợi ích mang tính vật chất cho doanh nghiệp, mà còn phải tạo ra được một sự thu hút và thuyết phục các nhân viên.

8. Nhân viên tỏ ra bất mãn với các nhà quản lý cấp trung

Họ cảm thấy rằng các nhà quản lý cấp trung cũng giống như những người "cai quản thuộc địa". Nguyên nhân chính thường là các nhà quản lý cấp trung không nhận được sự chỉ đạo thích hợp từ các nhà quản lý cấp cao hoặc trong trường hợp tệ hơn, họ cũng làm theo cách mà các nhà quản lý cấp cao đã đối xử với họ.

Doanh nghiệp doanh nhân & văn hóa

Lê Đăng Doanh

Tạp chí Văn hóa doanh nhân

Ngày nay, ở nước ta, mặc dầu đã có Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp bổ sung, sửa đổi năm 2001, Nghị quyết 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị Trung ương lần thứ V (khóa IX), Luật Doanh nghiệp đã có hiệu lực từ 01/01/2000, khởi nghiệp doanh nghiệp tư nhân vẫn đòi hỏi sự dũng cảm, dấn thân và chịu đựng.

Dũng cảm vì, ngoài bất trắc vốn có của bất kỳ nền kinh tế thị trường nào, ngoài sự cạnh tranh gay gắt trên thương trường, doanh nghiệp tư nhân phải đối mặt với quá nhiều khó khăn, trở ngại, hiểm nguy từ rất nhiều phía trong kinh doanh như: gom vốn, tìm mặt bằng kinh doanh, vượt qua mê hồn trận văn bản pháp quy vừa mù mờ vừa rối rắm, thiếu ăn khớp với nhau. Dấn thân và chịu đựng mặc dầu đã có nghị quyết và luật pháp phải vượt lên bao thành kiến, cách làm tư lợi và tắc trách của không ít viên chức ở một số cơ quan nhà nước có quyền "sinh, sát" đối với doanh nghiệp. Mặc dầu tạo ra việc làm, đem lại thu nhập chính đáng cho người lao động, nộp thuế, tham gia các hoạt động từ thiện và bảo trợ xã hội, doanh nhân vẫn bị coi là "kẻ ích kỷ", "chỉ làm giàu cho cá nhân mình" một cách vô căn cứ. Thành kiến phổ biến đến mức phim ảnh trên truyền hình hay tác phẩm văn học nếu có vai "Giám đốc doanh nghiệp tư nhân" thì đó phải là một kẻ lưu manh, làm ăn liều lĩnh và lừa đảo, đồi bại về đạo đức, sống buông thả, táng tận lương tâm, vi phạm pháp luật. Nếu như trên tivi, báo, đài nói đến tăng, giảm giá thì thường quy cho là tại "bọn tư thương ép giá" hoặc "tư thương đầu cơ" mặc dầu không bao giờ chứng minh được hành vi đầu cơ đó như thế nào, cụ thể ai đầu cơ thế nào. Và cho đến nay cũng chưa có quy định hướng dẫn về khen thưởng doanh nghiệp tư nhân được thưởng huân chương về đóng góp của mình cho xã hội. Sự nhẫn nhục chịu đựng, kiên trì! bền gan kinh doanh phải được coi là một đức tính quan trọng của doanh nhân ngày nay. Nếu nói đến văn hóa thì đó cũng là một giá trị văn hóa của sự chịu đựng và thích nghi.

Kinh tế thị trường, cạnh tranh có luật pháp, thể chế, quy định phù hợp. Kinh doanh trong một nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa ngày nay đòi hỏi phải chiếm lĩnh khoa học công nghệ, am hiểu văn hóa, thường xuyên học hỏi, sáng tạo và tự đổi mới mình. Kinh doanh ở Trung Quốc đòi hỏi phải am hiểu văn hóa Trung Quốc, thị hiếu, khẩu vị của người Trung Quốc ở mỗi vùng trong khi kinh doanh ở nước theo đạo Hồi phải am hiểu kinh Koran và phong tục, tập quán của từng nước. Thật là vô căn cứ và võ đoán khi đồng nghĩa kinh tế thị trường với bóc lột, áp bức, dối trá, lừa đảo và vô văn hóa, vô đạo đức.

Doanh nghiệp là một loại tế bào của xã hội, doanh nghiệp không chỉ là một đơn vị kinh doanh, doanh nghiệp là một cơ sở văn hóa và mỗi doanh nghiệp có văn hóa kinh doanh của mình. Văn hóa của doanh nghiệp không tách rời với văn hóa của xã hội là hệ thống lớn bao gồm doanh nghiệp. Văn hóa của doanh nghiệp trước hết là tuân thủ pháp luật, là bảo đảm có lãi, không những nuôi được người lao động mà còn phát triển. Trên thế giới, từ Microsoft đến Honda, Sony đã sáng tạo ra bao nhiêu giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, góp phần phát triển văn hóa của loài người.

Một doanh nghiệp độc quyền, rất sang trọng về vật chất nhưng chính họ lại rất thiếu văn hóa và nhẫn tâm vì họ đã áp đặt phi lý gánh nặng chi phí kinh doanh lên bao nhiêu người dân. Thử hỏi quy định bắt người tiêu dùng dùng điện thoại di động gọi có 1 giây nhưng phải trả tiền cho 60 giây là có văn hóa hay vô văn hóa. Phải chăng đó là văn hóa tước đoạt hàng ngày, hàng giờ tiền bạc của người tiêu dùng lại được áp đặt bằng quyền lực hành chính?

Từ Biti's đến Thái Tuấn, gạch Đồng Tâm... mỗi doanh nghiệp đều xây dựng văn hóa và nềnnếp kinh doanh của riêng mình. Trong kinh doanh, doanh nghiệp, doanh nhân có quan hệ kinh tế, xã hội với rất nhiều người trong xã hội, trong mỗi quan hệ đó đều thể hiện văn hóa kinh doanh. Trong quan hệ tín dụng với ngân hàng, từ việc cung cấp trung thực các thông tin về thực trạng tài chính của doanh nghiệp, bảo đảm đúng các cam kết với chủ nợ dẫu việc kinh doanh của mình có khó khăn. Với các đối tác kinh doanh, chữ tín là văn hóa, là phẩm chất của doanh nhân, là kỷ luật và bản lĩnh kinh doanh. Với khách hàng, bảo đảm chất lượng, không lợi dụng sự thiếu hiểu biết của khách hàng để lừa họ (mà trong khoa học kinh tế được xác định là sự bất đối xứng thông tin giữa người bán hàng và người mua hàng), để bán hàng kém phẩm chất, hàng rởm là văn hóa, là có lòng tự trọng và tôn trọng các giá trị tinh thần. Trong kinh tế thị trường, khách hàng được coi là tài sản của doanh nghiệp, khách hàng càng được trân trọng trong những doanh nghiệp làm ăn chân chính, có uy tín. Có thể kể đến người bán hàng, tiệm ăn rất chiều khách, lấy công làm lãi, chăm sóc rất chu đáo khách hàng. Phải coi người doanh nhân biết xuất khẩu lá chuối tươi, rau muống xào tỏi đông lạnh ở Nhà Bè, xơ dừa ở Bến Tre, rơm sạch ở Ninh Bình, tượng đá ở Đà Năng... là những người có văn hóa. Họ đã đem lại những cái coi là không có giá trị những giá trị sử dụng và thẩm mỹ mà trước đó chưa hề được phát hiện.

Điều này lại càng đúng đối với những nghề dịch vụ mà khách hàng không có khả năng kiểm nghiệm chất lượng của dịch vụ như thiết kế xây dựng, dịch vụ khám, chữa bệnh, giải phẫu thẩm mỹ hay dịch vụ tư vấn luật pháp, kiểm toán... Xã hội cần đề cao những doanh nhân trung thực, nêu cao trách nhiệm và các giá trị tinh thần trong kinh doanh. Muốn vậy, doanh nghiệp và doanh nhân không chỉ coi trọng lợi nhuận là giá trị duy nhất mà còn rất coi trọng sự đóng góp cho xã hội từ đóng thuế đến tạo ra việc làm hay cả niềm vui của khách hàng thỏa mãn với sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp. Sản phẩm ở đây hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là sản phẩm vật chất (may mặc, xe máy hay đồ chơi trẻ em), tinh thần như tư vấn, sức khoẻ, sự hài lòng của khách hàng mà bao gồm cả con người đối với các cơ sở đào tạo. Không thể nào coi là có văn hóa nếu như các trường sản xuất ra những "người rởm", bằng cấp thật nhưng kiến thức, nhân cách, tinh thần làm việc, tinh thần trách nhiệm đều rất kém cỏi. Văn hóa ở đây vượt lên trên sự hào nhoáng của xe cộ, hội sở, quần áo hay các nữ thư ký mặc sành điệu. Văn hóa ở đây nằm trong sản phẩm kinh doanh, mỗi hành vi kinh doanh, mỗi hợp đồng, mỗi cam kết của doanh nhân.

Trong nội bộ doanh nghiệp, hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả các Trường học, Viện nghiên cứu, văn hóa thấm sâu trong từng mối quan hệ trong doanh nghiệp giữa giám đốc với công nhân, giữa doanh nghiệp với khách hàng... Vừa qua chúng ta đã phải chứng kiến những hành vi rất vô văn hóa của chuyên gia đánh công nhân, đối xử tàn tệ với người lao động ở một vài doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. May mắn thay những việc đó chưa phát hiện ở doanh nghiệp tư nhân trong nước, nếu không sự lên án và thành kiến chưa biết đến mức nào.

Đương nhiên, trong doanh nghiệp tư nhân còn không ít hành vi vô văn hóa và phản văn hóa, làm ăn chụp giật. Song, số ít đó không phải là đặc quyền cố hữu của doanh nghiệp tư nhân mà như các vụ án về bà Trương Thị Thanh Hương ở lương thực An Giang hay Mai Văn Huy ở Đồng Tháp và các vụ bê bối về hầm, về cầu, về đường... khác cho thấy thì trong doanh nghiệp nhà nước cũng không phải là không có. Vơ đũa cả nắm, thành kiến còn tệ hại hơn sự ngu dốt vì nó bất chấp sự thật và dẫn đến những thái độ sai lầm.

Và để cho kinh doanh có văn hóa, doanh nghiệp có văn hóa thì công sở, cơ quan nhà nước các cấp cũng phải có văn hóa, viên chức phải hành xử đúng pháp luật, có trách nhiệm và có văn hóa. Không thể đòi hỏi doanh nghiệp trong sạch nếu bộ máy tham nhũng, doanh nghiệp phải có văn hóa trong khi viên chức nhà nước ứng xử tư lợi và thiếu văn hóa. Muốn có văn hóa doanh nghiệp thì trước hết các công sở phải có văn hóa trong đối xử với công dân và doanh nghiệp. Viên chức Nhà nước tự ý lạm dụng quyền hạn, hành động vượt quá quy định pháp luật, bắt chẹt, làm khó cho doanh nghiệp không thể coi là có văn hóa.

Vì vậy toàn xã hội và mỗi một doanh nghiệp hãy cùng phấn đấu để doanh nghiệp và công sở đều hoạt động đúng pháp luật và đúng văn hóa. Hãy tôn vinh những doanh nghiệp làm ăn chân chính, có năng lực cạnh tranh, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và cho tiến bộ xã hội. Và phải lên án những hành vi vô văn hóa hay phản văn hóa khi chúng xuất hiện ở bất cứ đâu để cho cái tốt, cái thiện được phát triển. Vì đất Việt chúng ta từ ngàn xưa đã là đất văn hiến. Chấn hưng nền văn hiến đó, đạt được thịnh vượng và phồn vinh trong thế kỷ thứ XXI này, đó phải là sự nghiệp của tất cả chúng ta.

Thế nào là "Văn hóa tổ chức"?

Hạ Lan

Tạp chí Văn hóa doanh nhân

Chúng ta hay đề cập đến "Văn hóa Công ty" (corporate culture), thực ra văn hoá Công ty chỉ là một dạng "Văn hóa tổ chức" (orgnization culture). Vậy, văn hóa tổ chức là gì?

Thuật ngữ "văn hóa" chỉ những giá trị, tín ngưỡng và nguyên tắc bên trong tạo thành nền tảng của hệ thống quản lý của doanh nghiệp cũng như một loạt các thủ tục quản lý và hành vi ứng xử minh chứng và củng cố cho những nguyên tắc cơ bản này.

(Denison, 1990)

Đề cập đến khái niệm "văn hoá tổ chức", các nhà nghiên cứa đã đưa ra rất nhiều ý kiến khác nhau. Trước khi hai khái niệm "văn hoá" và "tổ chức" dược ghép lại với nhau, đã có hàng chục định nghĩa khác nhau về "văn hoá". Cụ thể là năm 1952, hai nhà nhân loại học Kroeber và Kluckhohn đã phân loại ra 164 nghĩa của từ "văn hoá". Khi kết hợp "văn hóa" và "tổ chức" với nhau thì nghĩa của chúng đã được khu biệt, hẹp lại rất nhiều nhưng chắc chắn cụm tử "văn hoá tổ chức" vẫn có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Sau đây là một vài định nghĩa thông dụng đã được công bố, sử dụng rộng rãi.

1. Văn hoá của một xí nghiệp là cách tư duy và hành động hàng ngày của các thành viên. Đó là điều mà các thành viên phải học và ít nhiều phải tuân theo để được chấp nhận vào xí nghiệp đó. Văn hóa theo nghĩa này bao gồm một loạt các hành vi ứng xử, các phương thức sản xuất, kỹ năng và kiến thức kỹ thuận quan điểm về kỹ luật, các thông lệ và thói quen quản lý, các mục tiêu của những người liên quan, cách kinh doanh, cách trả lương, quan điểm về các công việc khác nhau niềm tin vào tính dân chủ trong các buổi thảo luận, và những quy ước, điều cấm kỵ (Theo Jaques, 1952).

2. Nói đến văn hoá của một tổ chức là nói đến một hình thể duy nhất với các tiêu chuẩn, giá trị, tín

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net