Chương 1 - Hy Sinh / Orvar Icenstaff

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 ORVAR ICENSTAFF

Ngày 20 cung Nhân Mã năm thứ 8 kỷ Hoà Bình,

90 ngày trước Xuân phân,

"Con có biết họ thường nói gì về đảo quốc Frostmost chúng ta không?" Đại pháp sư Alvis Heidrun trầm ngâm hỏi. Đôi mắt ông hấp háy phản chiếu ánh sao trên trời.

Orvar thở dài đánh thượt. "Đấy là một nơi thật đẹp nhưng lại rất bi thương!" cậu pháp sư tập sự phóng tầm mắt ra xa, ôm lấy toàn cảnh bờ vịnh Isewale vừa mờ vừa tỏ trong những ánh đuốc xanh lập loè.

Ngoài bến cảng Misty, một con thuyền buôn từ Thần Hoả Quốc xa xôi vừa rời khỏi bến sau khi chất dỡ hàng. Orvar ngẩng đầu nhẩm tính số ngày còn lại của sáu tháng Trường dạ đang chầm chậm qua đi tại nơi nằm xa tít tận cực bắc Hetra này. Thời tiết đang ấm dần lên, lớp băng bên ngoài cũng đang tan bớt đi. Vài con thuyền buôn liều lĩnh liền đem theo bùa bảo hộ trên biển mà tranh thủ lặn lội đến đây giao dịch. Chỉ mấy tháng nữa thôi, nửa năm ấm áp ánh mặt trời sẽ lại đến với Frostmost. Nhưng có lẽ lúc ấy, mình cũng đã chẳng còn ở đây nữa.

"Tại sao lại bi thương?" ông lại hỏi, trong giọng nói chẳng giấu nổi vẻ ưu tư.

"Ông ngoại à, ông đã hỏi cháu câu này gần như mỗi ngày trong suốt tám năm qua rồi," Orvar không kiêng dè đáp. "Cho dù ông có nói bao nhiêu lần đi nữa, cháu cũng vẫn không thay đổi quyết định của mình đâu!" Cậu quay lưng, toan bỏ đi.

"Cháu thật sự muốn bỏ mặc tất cả lại sao?" Alvis gầm gừ, giọng ông trầm và cứng cỏi giống như cơn gió bắc thổi qua những tán thông hùng vĩ, đủ mạnh để làm những cành cây cổ thụ rung lên.

Thế nhưng, vẫn không đủ để làm lung lay quyết tâm của cậu pháp sư tập sự. "Cháu sẽ sớm đi khỏi nơi này." Orvar rời vọng đài, thả bước về phía bến cảng Misty.

Để ý thấy Đại pháp sư không theo mình, Orvar trút một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Vừa lững thững đi, Orvar vừa lười nhác nhìn ngó chung quanh. Chẳng bao lâu nữa, mình sẽ thoát khỏi cái nơi lạnh lẽo tối tăm này. Thứ ánh sáng duy nhất ở đây chỉ là li ti mấy đốm lửa màu xanh nước biển thấp thoáng bên những khung cửa gỗ, rải rác trên ngọn đồi White Head uy vệ nằm ngay trung tâm đảo, mỏng manh hệt như tình cảm của cậu đối với Frostmost.

Đến phố Handwork, cậu rảo bước thật nhanh, cố gắng né tránh những ánh nhìn thiếu thiện cảm đang đổ về phía mình. Nhưng rốt cuộc, bước chân Orvar đành phải dừng lại vì đằng trước có mấy nhóm pháp sư đang luyện tập kỹ năng đối kháng. Nào là những dòng nước uốn lượn trên không trung, nào là những hoả cầu hừng hực phóng vun vút trong bãi tập bắn, còn có cả những pha cận chiến bằng quyền trượng không hề thua kém các hiệp sĩ phương nam—kẻ tử thù của đồng bào cậu.

"Đi đi! Ở đây không có hoan nghênh mày." Một tên pháp sư thực tập gắt gỏng.

"Phải đó. Cút về với bà quạ đen nhà mày đi." Một gã khác hưởng ứng.

Bình thường, nếu thấy Orvar đi qua, chắc chắn cậu sẽ trở thành tấm bia cho lũ pháp sư tập sự đó, chứ không phải chỉ bị mắng vài câu nhẹ nhàng như vậy. Nhưng có lẽ vì hôm nay là một ngày rất đặc biệt đối với toàn bộ cư dân đảo quốc, và ngày đó cũng có liên quan mật thiết đến gia đình cậu nên chúng chỉ hằn học thảy cho Orvar những ánh mắt khinh khỉnh.

Mình đã chịu được bao năm rồi. Chỉ cần ráng chịu thêm mấy tháng nữa thôi là được tự do. Orvar cố gắng tảng lờ tất cả, nhưng cậu cũng thôi không đi ngang qua chúng nữa mà quay đầu lặng lẽ lên lại con đường dốc cũ.

Có lẽ một lần này thôi vậy. Dù gì cũng là buổi lễ tưởng niệm của ông ấy. Ngước mặt nhìn toà tháp Đại hội đồng vươn mình hùng dũng trên đỉnh White Head, cơ quan quyền lực tối cao của các phù thuỷ và pháp sư Frostmost, cậu thầm nguyền rủa bản thân khi đôi chân bắt đầu hướng về phía đó. Khác với mọi bữa, hôm nay hai bên con đường thoai thoải dẫn lên đồi đặt đầy những chậu hoa bạch đầu ông màu tím. Cậu vừa chầm chậm bước vừa chú mục vào ngọn tháp uy nghi, đầu ngón tay vô thức lướt qua những cánh hoa mềm mại.

Ông ngoại đã không còn đứng ở vọng đài ban nãy nữa. Giờ này chắc ông đã quay về tháp để chuẩn bị cho buổi lễ rồi. Orvar thoáng chau mày, ngập ngừng bước tiếp những bậc thang cuối cùng. Quảng trường Crescent và toà tháp đã lừng lững hiện ra trước mặt. Công trình cao vút này được chính tay Lôi Thần đẽo gọt từ một cây cổ thụ khổng lồ. Nó vươn tít tắp chọc thẳng đến bầu trời. Phần đỉnh được bao phủ bởi tầng tầng lớp lớp những khối mây màu xám dày đặc vần vũ quanh năm suốt tháng trông cực kỳ bí hiểm.

Trước cổng chính tháp Đại hội đồng, hàng trăm pho tượng các Tổng pháp quân làm bằng băng trong suốt oai dũng xếp thành ba vòng quanh quảng trường, và trong số đó có cả cha của cậu.

Ngày này tám năm trước, Sigurd Icenstaff đã hi sinh trong trận chiến chống quân xâm lược từ Đế Quốc Diamond. Orvar Icenstaff mất đi người cha khi cậu chỉ vừa mười sáu tuổi. Ngày 20 cung Nhân Mã hàng năm, những ngọn đuốc lại được thắp lên sáng rực dưới chân các bức tượng tổng pháp quân để tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì đảo quốc.

Orvar lách mình tìm đến bức tượng của Sigurd. Nơi nơi tràn ngập ánh lửa xanh lạnh lẽo, phản chiếu gương mặt những nhân chứng của chặng đường gươm đao gian truân mà Frostmost phải đi qua. Họ đã kiên cường đánh đổi biết bao máu và nước mắt cho những tháng ngày bình yên như hôm nay.

Cậu pháp sư trẻ đứng trước bức tượng cha mình, ánh đuốc xanh lập loè bao phủ lấy gương mặt làm đôi tròng mắt xanh biếc dường như tan đi đâu mất, mái tóc đen dài buồn bã khẽ lay động trong cơn gió bắc lạnh lẽo. Chưa bao giờ cậu yêu thích thứ lửa lạnh lùng này. Orvar luôn ôm trong mình khao khát rời khỏi nơi đây. Cậu muốn được khám phá thế giới, được cái nóng cháy bỏng ở Thần Hoả Quốc miết qua da, được đắm chìm vào những tàng cây cổ thụ ở Rừng Folidarc, muốn đến nhìn tận mắt đất nước phồn vinh của bọn Đế Quốc Diamond. Orvar muốn quên đi những đau buồn để được sống thật tự do, thoát khỏi những tranh đấu thương tâm vô nghĩa.

Cậu ngước gương mặt không chút cảm xúc cùng đôi mắt ráo hoảnh nhìn ngắm người đàn ông trước mặt, cố lần ra những đường nét mình thừa hưởng từ Sigurd. Từ trước đến giờ, cậu vẫn chưa lần nào nhìn thẳng vào gương mặt người cha mà cậu chưa từng có cơ hội gặp. Orvar căm ghét bức tượng này. Nó cứ đứng trơ trơ ở đó như một lời nhắc nhở. Cha mày chết rồi! Cậu bất giác mím chặt đôi môi mỏng, trong lòng dâng lên một chút đắng cay phẫn nộ. Gió lạnh vẫn điềm nhiên thổi, đùa giỡn với những ngọn lửa xanh.

"Nhìn thế nào vẫn thấy phần mắt không giống nhỉ?" Đại pháp sư Alvis Heidrun vừa cất tiếng hỏi vừa híp híp mắt như đang cố gắng tìm ra khiếm khuyết trên bức tượng. Tà áo chùng trắng toát lướt đến bên cạnh Orvar lúc nào mà cậu không hề hay biết.

"Cháu không rõ," Orvar đáp nhẹ hẫng, cố che giấu những cảm xúc chớm dâng lên trong lòng nhưng vẫn len lén xem xét gương mặt Sigurd. Kỹ thuật điêu khắc của nghệ nhân Frostmost nổi tiếng khắp cõi Hetra. Những pho tượng họ tạc ra đều trông sống động giống hệt người thật. Orvar từ đó đến giờ vẫn luôn say mê những bức tượng Hải Thần trong Đại Sảnh tháp Đại Hội Đồng nhưng riêng bức tượng của cha thì cậu chưa bao giờ dám nhìn kỹ.

"Cháu nhìn xem. Thật ra, mắt phải của Sigurd to hơn mắt trái một chút. Bọn pháp quân dưới trướng luôn cảm thấy Sigurd rất đáng sợ khi bị nó trừng mắt nhưng ông thì chỉ thấy buồn cười," Đại pháp sư vừa nói xong liền phát ra những tiếng cười khùng khục làm bộ râu bạc trắng khổng lồ dài đến ngang bụng cũng rung rinh theo. Âm thanh kỳ quái của ông làm tảng băng trong lòng cậu như dần tan ra. Khoé miệng Orvar khẽ nhếch lên nhè nhẹ.

Alvis vẫn luôn biết cách khiến cậu mở lòng. Ông đã chăm sóc cho cậu từ nhỏ. Nhờ có ông mà những ngày tháng vắng cha mới trở nên nhẹ nhàng hơn. Trong Alvis giống như có hai con người tồn tại song song. Một hài hước, kỳ kỳ quái quái mỗi khi ở bên cậu. Một nghiêm khắc, quyết đoán khi ông thượng trên ngai Đại pháp sư.

"Năm nào đến ngày này ông cũng không thấy cháu đâu. Năm nay sao cháu lại đến vậy?" Alvis không giấu được sự tò mò.

"Đây có thể là buổi lễ tưởng niệm cuối cùng cháu được xem nên cháu nghĩ có lẽ mình..." cậu bỏ lửng câu trả lời rồi chợt nấc lên. "Có đáng không hả ông? Cuộc chiến ấy đấy."

Một cơn gió lạnh chợt cuốn qua khiến rừng thông hai bên đồi reo rì rào khắp không trung. Alvis thở dài, ngước nhìn những bóng cây rậm rạp đen sì đang đều đặn đung đưa. "Chẳng có cuộc chiến tranh nào là đáng cả. Nhưng đây là lãnh thổ của chúng ta, là ân huệ của Hải Thần Okeania ban cho Pháp tộc."

Là ân huệ hay là một lời nguyền? Orvar nhếch mép tự hỏi. Cùng một câu chuyện nhưng truyền thuyết ở mỗi vùng lại có những cách kể khác nhau. Người Frostmost thì tin rằng ngày đó Hải Thần đã xin được từ Thổ Mẫu Thần một ngọn đồi ở phương nam trù phú và cuốn nó đến đây, rồi ban phép để trong lòng quả đồi đó luôn chảy một mạch nước ấm áp, khiến cây cối có thể sinh sôi nảy nở; còn bọn Đế Quốc Diamond lại luôn miệng khẳng định hòn đảo này là do Hải Thần ăn cắp mà có. Và chính câu chuyện mơ hồ đó đã dẫn đến những cuộc chiến tranh triền miên giữa Pháp tộc và Nhân Tộc ở trời nam xa xôi.

"Ông kể lại cho cháu nghe lần nữa đi. Cha đã hi sinh như thế nào vậy?" Orvar lảng tránh câu hỏi. Cha cậu chết như thế nào chẳng lẽ cậu không rõ sao? Câu chuyện này dù cậu không muốn nghe thì cũng bị hàng trăm cái miệng ngoài kia xoáy vào lỗ tai.

Chiều ngày 20 cung Nhân Mã năm 4000, hiệp sỹ Henry Surge bên phe Đế Quốc Diamond đã không ngại huỷ hoại danh dự của chính hắn mà dùng mưu hèn kế bẩn, ném một nắm cát che mờ đôi mắt cha cậu. Hắn muốn trả thù Sigurd vì trước đây từng bị ông chém mù mắt trái. Henry vung lưỡi gươm xé gió lao tới, xuyên thủng quả tim Tổng pháp quân Icenstaff và cướp đi sinh mạng vị anh hùng.

"Bị phản bội..." ông Alvis khẽ thì thầm, nhỏ đến nỗi Orvar không dám tin vào tai mình, nhưng những từ đó đủ trọng lượng để đập tan những suy nghĩ lơ đễnh trong đầu cậu. Cậu sững sờ quay phắt về phía Alvis. Mình có nghe lầm không? Cha chết do bị phản bội sao?

Trước khi cậu kịp mở miệng hỏi lại cho rõ thì tiếng chuông từ tháp Đại hội đồng bỗng ngân vang, báo hiệu đã đến giờ làm lễ tưởng niệm. Orvar giật mình xoay về hướng toà tháp chuông, đến khi nhìn lại thì tà áo choàng trắng của ông Alvis đã biến mất sau cánh cổng tháp Đại hội đồng. Những gì cậu định nói bỗng chốc tan biến hoàn toàn.

Orvar tự trấn tĩnh chính mình. Chắc là cậu chỉ nghe nhầm thôi. Câu chuyện về cái chết anh dũng của cha cậu được chính ông Alvis kể lại cho toàn dân trên đảo. Lúc đó cậu cũng có mặt ở quảng trường và nghe không sót một chữ nào. Đến mấy năm sau vẫn còn có người bàn tán về chuyện này. Orvar nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần thêm mắm dặm muối của người dân, nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ thấy ai nhắc đến chi tiết phản bội cả.

Bỗng, tiếng người ồn ào từ phía xa vọng lại kéo cậu ra khỏi dòng suy nghĩ. Orvar trải tầm mắt từ quảng trường Crescent xuống triền đồi White Head. Những người dân đảo khắp chốn từ ông già cho đến trẻ nhỏ đều vội vã bỏ lại những công việc dở dang để đến hành lễ. Tất cả đều mặc áo chùng tím và đem theo lễ vật. Trên tay họ là những bó hoa bạch đầu ông màu tím nhạt thường được dùng trong nghi thức mai táng hoặc lễ tưởng niệm. Không chờ họ đến gần, Orvar đã vội vã lách vào một góc khuất. Mái tóc dài lẫn vào những gốc thông cao vút đen sì. Cậu không muốn bị soi mói bởi những ánh mắt thương hại đó.

Đi đầu đoàn người, không ai khác hơn chính là Olivette Heidrun—mẹ của cậu—với một khay hương liệu, hoa bạch đầu ông, và một vò rượu tuyết. Olivette tuy đã có tuổi nhưng vẫn rất yêu kiều. Bước chân bà nhanh nhẹn, tuy có phần gấp gáp nhưng vẫn làm nổi lên dáng người dong dỏng cao cùng mái tóc đen mượt trông đến huyền bí.

Những người dân đảo đi phía sau đều cố ý giữ một khoảng cách nhất định. Không phải vì họ kính trọng người thân của vị anh hùng, mà vì họ sợ và căm thù bà Olivette.

Mẹ của cậu là một Tiên tri. Và Tiên tri, cho dù là ai đi chăng nữa, thì vẫn luôn bị xa lánh, bởi lẽ họ chỉ có thể nhìn thấy được những tai ương sắp đến. Người ta cho rằng nhìn thấy Tiên tri là xúi quẩy, nghe Tiên tri nói là sắp rước họa vào thân. Trước đây, họ kiêng dè Olivette do bà là vợ của Sigurd - một Tổng pháp quân lẫy lừng. Từ ngày Tổng pháp quân mất đi, mẹ cậu càng bị người dân né tránh, lạnh nhạt. Một số người còn độc miệng bảo rằng sở dĩ cha cậu tử trận là vì lấy phải một người đàn bà hắc ám. Xưa nay, vị Tiên tri nào cũng bị định sẵn một cuộc sống cô quạnh, bị người xung quanh xa lánh đến hết đời. Nơi duy nhất chứa chấp họ chính là bên trong tháp Đại hội đồng, nơi họ lặng thầm dùng tài năng thiên bẩm của mình để bảo vệ đảo quốc.

Vốn dĩ mẹ cậu cũng sẽ chịu chung số phận với những người tiền nhiệm, nhưng bất ngờ thay, bà lại trở thành vợ của một Tổng pháp quân. Những tưởng chuyện này sẽ dần thay đổi cách nhìn của mọi người về Tiên tri, rằng họ cũng đáng nhận được sự tôn trọng. Nhưng ai ngờ chính cuộc hôn nhân đó lại quay lại cắn mẹ con bà ngay sau khi Sigurd qua đời. Những khinh bỉ bị dồn nén do uy danh của cha cậu cuối cùng cũng có cơ hội thoát ra, xối xả lên người mẹ con cậu. Đều là một lũ vong ơn bội nghĩa! Orvar nghiến chặt răng khi thấy điệu bộ rụt rè của những người dân đảo ngay sau lưng bà Olivette. Đấy là lại thêm một lý do nữa để Orvar muốn biến mất khỏi hòn đảo này và không bao giờ quay trở lại.

Ông Alvis luôn bảo hai mẹ con cậu không giống nhau. Bà Olivete là một phù thuỷ mạnh mẽ và ngoan cường, biết cách ngẩng cao đầu mà sống bất chấp những lời quàng xiên. Đôi mắt sáng ngời của một nhà Tiên tri luôn biết tảng lờ những kẻ ác mồm ác miệng, bởi lẽ cho dù người xung quanh đối xử với bà ra sao, phép Tiên tri vẫn là vận mệnh không thể chối bỏ. Olivette vẫn phải đưa ra lời cảnh báo mỗi khi tai hoạ sắp ập đến cho dù điều đó có khiến bà trở thành con quạ đen xấu xí trong mắt ai đi chăng nữa. "Ta vẫn là tấm khiên che chắn cho cả đảo quốc."

Orvar thì lại không được vị tha và rộng lượng như thế. Trong lòng cậu luôn giữ một mối thù sâu đậm đối với những kẻ bạc bẽo ở đây. Ẩn mình trong hàng cây, cậu quắc mắt nhìn đoàn người ngay hàng thẳng lối lầm lũi tiến lên đồi White Head, tập trung tại quảng trường Crescent trước cổng chính tháp Đại hội đồng. Gió bắc nhè nhẹ thổi khiến những tà áo chùng tang lễ trông như những đám mây màu tím dập dềnh trong ánh lửa xanh, bầu không khí tràn ngập vẻ ma mị của những bí tích cổ xưa. Người Frostmost tin rằng sau khi chết, linh hồn sẽ rời khỏi thân xác dưới dạng một cơn gió và quay về với Thiên Thần - người Cha Cả của vạn vật. Lửa có thể tàn, sông có thể cạn, cây cối có thể mục nát đi, nhưng những cơn gió luôn trường tồn vĩnh viễn. Đó chính là cuộc sống đời sau mà Cha Cả dành riêng cho người Frostmost.

Bà Olivette tiến đến bàn thờ đặt dưới bóng cây sồi tuyết sum suê loà xòa những cành lá trắng phau gần cổng tháp. Olivette trông có vẻ hốc hác tiều tuỵ. Năm nào cũng vậy, cứ đến khoảng thời gian này là bà lại mất ngủ vì bị ám ảnh bởi cơn ác mộng ngày đó. Bà khuỵ gối bày lễ vật lên bàn thờ, suối tóc đen dài rũ xuống trên nền tuyết trắng. Bạch đàn hương được đốt lên toả một mùi thơm ấm áp thoang thoảng trong không gian.

Đây có lẽ là thứ duy nhất mang hơi ấm ở Frostmost. Mùi bạch đàn luôn luôn khiến Orvar nhớ đến những bài hát ru của mẹ. Cậu lớn lên trong thời chiến nên chưa bao giờ có cha bên cạnh. Sigurd bị cuốn vào những buổi tập huấn khắc nghiệt và những trận giao tranh không hồi kết với Đế Quốc Kim Cương, bỏ lại hai mẹ con cậu bơ vơ trong lo lắng.

Ngắm nhìn làn khói xám mang theo mùi hương ấm áp uyển chuyển hoà quyện trong không khí, Olivette bất chợt đảo mắt quanh quất như đang tìm kiếm ai đó. Trong một khoảnh khắc, Orvar chạm ánh mắt mẹ. Cậu liền vội vã rụt vào nấp sau những bóng cây thông xung quanh quảng trường, lòng thầm mong mẹ chưa phát hiện ra mình.

Trong góc khuất, Orvar thấy Olivette nhìn quanh quẩn vài vòng nữa rồi mỉm cười nhẹ nhàng tiếp tục chuẩn bị bàn lễ. Có lẽ lúc nãy bà không bắt gặp cậu, nhưng với nụ cười đó, Orvar tin chắc bà biết rõ cậu đang ở gần đây. Đó là quyền năng Thấu thị của một nhà Tiên tri. Bà có thể linh cảm được sự hiện diện của một người hay vật nào đó nên cho dù Orvar trốn ở đâu, Olivette vẫn luôn tìm ra cậu.

Lúc Olivette gần sắp xếp xong bàn thờ thì một luồng khói trắng bốc lên kế bên bà và Đại pháp sư chậm rãi bước ra từ cuộn khói đó. Ông đã thay tang phục màu tím và cầm theo cây quyền trượng làm từ khối băng vĩnh viễn không tan trong đền thờ Hải Thần. Đại pháp sư khẽ gật đầu với con gái mình, ánh mắt đong đầy sự quan tâm. Bà Olivette mỉm cười nhẹ nhàng rồi lùi về phía đám đông. Họ cũng lùi lại một bước, cố ý đứng cách xa bà một chút. Olivette không thèm để ý đến bọn họ, đôi mắt đượm buồn đang mải nhìn chăm chăm vào bức tượng Sigurd. Orvar trộm nghĩ, không biết mẹ đang nhớ lại những kỷ niệm gì với vị Tổng pháp quân quá cố ấy.

Bỗng, giọng nói ồm ồm của Alvis cất lên như cắt ngang dòng suy nghĩ của bà. Orvar thấy Olivette thoáng giật mình, rồi hướng sự tập trung về phía Đại pháp sư. Với cây quyền trượng giơ cao, ông bắt đầu cất tiếng vang vọng khắp quảng trường. Alvis vui tính đã biến mất, thay vào đó là một Đại pháp sư quắc thước, nghiêm nghị.

Bình thường, các nghi lễ trên đảo đều do Đại tư tế Magni cử hành. Tuy nhiên, Tổng pháp quân Sigurd Icenstaff lại là con rể, cũng tính là người nhà với Alvis nên Đại pháp sư phải chủ trì nghi thức này.

Alvis hắng giọng rồi bắt đầu đọc bài kinh Tiễn Đưa. Phía dưới, Olivette và cư dân Frostmost cũng lầm rầm đọc theo. Họ cúi đầu thành kính, chống quyền trượng xuống đất ngay phía trước ngực. Orvar dõi mắt nhìn nghi lễ, trong lòng dâng lên một cảm giác rất khó tả. Cậu buồn rầu, nhưng cũng oán giận; thương xót, nhưng lại rất phẫn nộ.

"Cha Cả ban cho tôi sự sống và đón chờ tôi trở về. Dù ra đi vì thời gian tôi đã tận hay vì bị cướp mất mạng này; dù để lại cha, mẹ, vợ, chồng, hay con cái, tôi cũng ngoan ngoãn vâng lời mà quay về với vòng tay Cha rộng mở. Đời tôi cống hiến cho dân tôi, cho đảo tôi. Nay nhiệm vụ đã hết. Tôi quay về dù trong vinh quang hay tội lỗi. Mạng sống này cúi xin Cha Cả đón nhận trong công bình, trong yêu thương, và trong khoan thứ. Hãy để tôi hoá thành ngọn gió và bay về bên Cha."

Không gian vang lời kinh thành kính hoà vào tiếng tù và ngân vang trên tháp vọng xuống. Trên trời, từng đàn ngư điểu lượn thành vòng quanh quảng trường mà quang quác những tiếng thê lương. Ngọn gió bắc nhói buốt vi vu thổi qua những đốm lửa xanh lạnh lẽo. Một thứ lửa giả tạo. Orvar run rẩy nhìn những người dân mà cha cậu đã bỏ cả gia đình, bỏ cả mạng sống bảo vệ, chỉ để họ không ngần ngại chà đạp, khinh bỉ, xa lánh mẹ con cậu. Orvar uất ức đến ứa nước mắt. Bao nhiêu năm trời, cậu vẫn giằng xé giữa sự kính phục và cơn giận đối với Sigurd. Cậu bấu chặt lấy thân một cây thông, cố gắng dồn nén những cảm xúc phức tạp trong lòng.

Đại pháp sư lại giơ cao trượng phép. "Vì sự hi sinh cao cả cho những người con của đảo.Vì sự kế thừa di sản của Bắc Thần. Chúng ta cảm ơn và an ủi ngọn gió Sigurd Icenstaff. Hãy yên nghỉ." Đám đông đồng loạt quỳ xuống, cúi đầu, tựa trán vào quyền trượng đặt trước mặt.

Ngay lúc đó, bốn pháp sư gánh từ cảng Misty đến một chiếc túi khổng lồ lúc nhúc những con cá tươi rói và đặt ở trước bàn thờ. Đây là một trong những nghi thức không thể thiếu được của người Frostmost mỗi khi cúng tế những người đã khuất.

Chiếc túi vừa mở ra thì ngay lập tức đàn ngư điểu từ trên trời lao xuống thi nhau xâu xé những con cá đang giãy đành đạch cố gắng trốn thoát. Chúng vẫy đôi cánh đại bàng khổng lồ màu trắng toát khiến gió nổi lên phần phật, rồi lại quẫy chiếc đuôi cá dài gấp đôi cơ thể, lấy đà phóng xuống chụp lấy con mồi. Chính nhờ khả năng di chuyển linh hoạt trên trời lẫn dưới biển, cùng với sức mạnh và tốc độ đáng nể nên ngư điểu được xem là linh vật của Frostmost và chúng cũng tượng trưng cho những chiến binh đã khuất. Chính vì

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net