Chương 8

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
tôi một cái nhìn nhạo báng tột độ. "Như thế chúng tôi sẽ chẳng bao giờ thấy anh ấy nữa", cô nói.
"Đừng gay gắt thế, anh bạn", Enoch nói. "Tớ chỉ gợi ý cậu lên đây vì tớ muốn cậu biết hết sự thật thôi mà. Tớ đứng về phía cậu."
"Thế à? Vậy thì sự thật là gì nào? Victor chết như thế nào?"
Bronwyn ngước mắt lên. "Anh ấy bị giết bởi một... ái ái!" cô la lên vì Enoch đã véo mạnh vào cánh tay cô.
"Im nào!" cậu ta kêu lên. "Không đến lượt cậu nói!"
"Thật lố bịch!" tôi nói. "Nếu không ai trong hai người chịu nói cho tôi biết, tôi sẽ đi hỏi bà Peregrine."
Enoch vội sải bước tới chỗ tôi, trừng mắt. "Ồ không, cậu không được làm thế."
"Vậy à? Sao lại không?"
"Chim không thích bọn tớ nói về Victor", cậu ta nói. "Đó là lý do cô ấy lúc nào cũng mặc đồ đen, cậu biết đấy. Dù thế nào đi nữa, cô ấy không được phép phát hiện ra chúng ta đã từng ở đây. Cô ấy sẽ treo ngược chúng ta lên mất!"
Thật đúng lúc, chúng tôi nghe thấy vang lên trên cầu thang tiếng bước chân tập tễnh không lẫn vào đâu được của bà Peregrine. Bronwyn tái mặt và lao vụt qua trước mặt tôi ra khỏi cửa, nhưng trước khi Enoch kịp tẩu thoát, tôi đã chặn đường cậu ta. "Tránh ra!" cậu ta rít lên.
"Nói cho tớ biết chuyện gì đã xảy ra với Victor!"
"Tớ không thể!"
"Vậy nói cho tớ biết về Tấn Công Làng."
"Chuyện đó tớ cũng không nói được!" Cậu ta cố đẩy tôi lần nữa để vượt qua, nhưng khi nhận ra không thể làm được cậu ta đành chịu thua. "Được rồi, đóng cửa lại, và tớ sẽ cho cậu biết!"
Tôi đóng cửa lại đúng lúc bà Peregrine lên tới chiếu nghỉ. Chúng tôi đứng dán tai vào cánh cửa trong giây lát, lắng nghe dấu hiệu cho thấy chúng tôi đã bị phát hiện. Tiếng bước chân của cô phụ trách vang lên ngoài hành lang hướng về phía chúng tôi, đến nửa đường rồi dừng lại. Một cánh cửa khác cót két mở ra, sau đó đóng lại.
"Cô ấy vào phòng mình", Enoch thì thầm.
"Được rồi", tôi nói. "Tấn Công Làng."
Có vẻ ân hận vì đã nhắc tới chuyện này, cậu ta ra hiệu bảo tôi rời xa khỏi cánh cửa. Tôi đi theo, cúi người xuống để cậu ta có thể thì thầm vào tai tôi. "Như tớ đã nói, đó là một trò bọn tớ chơi. Nó diễn ra đúng như tên gọi ấy."
"Ý cậu là các cậu thực sự tấn công vào làng sao?"
"Phá tung nó lên, đuổi dân làng chạy tán loạn, lấy những gì bọn tớ thích, đốt trụi chỗ này chỗ kia. Một trận cười thỏa thích."
"Nhưng như thế thật kinh khủng!"
"Bọn tớ cũng phải thực hành kỹ năng của mình bằng cách nào đó chứ, phải không? Phòng khi bọn tớ cần phải tự vệ. Nếu không, bọn tớ sẽ bị lụt nghề. Hơn nữa còn có luật chơi. Bọn tớ không được phép giết ai. Chỉ làm họ phát khiếp một chút thôi. Và nếu ai đó có bị thương thì, chậc, họ sẽ lành lặn y như cũ ngày hôm sau và chẳng nhớ gì về chuyện đó cả."
"Cả Emma cũng chơi à?"
"Không. Bạn ấy giống hệt cậu. Nói là như thế thật tồi."
"À, đúng thế đấy."
Cậu ta đảo mắt đi. "Hai người quả là xứng đôi."
"Thế có nghĩa là sao?"
Cậu ta vươn hết chiều cao một mét sáu ba của mình và chỉ một ngón tay vào ngực tôi. "Như thế nghĩa là tốt hơn hết cậu đừng có ra vẻ cao ngạo với tôi, anh bạn ạ. Vì nếu bọn này không thỉnh thoảng tấn công cái làng khỉ gió ấy, phần lớn những người ở đây hẳn đã mất trí từ lâu rồi." Cậu ta đi ra cửa, đặt bàn tay lên tay nắm rồi sau đó quay lại nhìn tôi. "Và nếu cậu nghĩ bọn này xấu xa, thì hãy đợi đến khi thấy chúng."
"Chúng là ai? Mọi người đang nói về cái quái gì vậy?"
Cậu ta giơ một ngón tay lên ra hiệu bảo tôi im lặng, rồi ra ngoài.
Tôi lại chỉ có một mình. Đôi mắt tôi lại bị hút về phía người nằm trên giường. Chuyện gì đã xảy ra với anh vậy, Victor?
Có thể anh ấy đã hóa điên và tự sát, tôi thầm nghĩ - anh ấy quá chán ngán với sự vui vẻ nhưng vĩnh viễn không có tương lai này đến mức uống thuốc chuột hay nhảy từ trên vách núi xuống. Hoặc nguyên nhân là chúng, những "mối nguy hiểm khác" bà Peregrine đã bóng gió nói đến.
Tôi bước ra hành lang và vừa dợm bước về phía cầu thang thì nghe thấy tiếng bà Peregrine vang lên sau một cánh cửa khép hờ. Tôi vội chui vào trong căn phòng gần nhất nấp kín cho tới khi bà đã tập tễnh đi qua chỗ tôi và xuống dưới cầu thang. Sau đó, tôi để ý thấy một đôi ủng để trước một chiếc giường được trải ga phẳng phiu - đôi ủng của Emma. Tôi đang ở trong phòng ngủ của cô.
Dọc theo một bức tường có kê một chiếc tủ ngăn kéo và treo một tấm gương, áp vào một bức tường khác là một bàn viết có cái ghế tựa được đẩy lui vào dưới gầm bàn. Đây là căn phòng của một cô gái gọn ghẽ không có gì để giấu giếm, hay có vẻ là như vậy cho tới khi tôi thấy một cái hộp đựng mũ để ngay trong tủ tường. Cái hộp được buộc bằng một sợi dây, và ở phía trước có mấy dòng viết ngang bằng chì sáp:
Riêng tư:
Thư tín của Emma Bloom
Không được mở
Viết thế chẳng khác gì vẫy vẫy một món đồ lót màu đỏ trước mặt một con bò tót. Tôi ngồi xuống, ôm cái hộp trong lòng và tháo dây buộc ra. Trong đó phải có cả trăm lá thư hay hơn thế, tất cả đều do ông tôi gửi.
Tim tôi đập nhanh hẳn lên. Đây chính là tứ mỏ vàng tôi đã hy vọng tìm thấy trong trại trẻ cũ đổ nát. Tất nhiên, tôi cảm thấy không thoải mái lắm vì xem trộm thế này, nhưng nếu những người ở đây cứ khăng khăng giữ kín bí mật, thì được thôi, tôi đành phải tự mình tìm hiểu mọi thứ.
Tôi muốn đọc tất cả nhưng lại sợ rằng sẽ bị ai đó bắt gặp, vì vậy tôi khẩn trương lướt qua chúng để nắm được tinh thần chung. Nhiều lá thư được viết từ đầu thập niên 1940, khi ông nội Portman còn ở trong quân đội. Tôi chọn ngẫu nhiên để xem thử thì thấy chúng đều rất dài và ướt át, đầy ắp những lời bày tỏ tình yêu cùng những mô tả lủng củng về vẻ đẹp của Emma bằng thứ tiếng Anh hồi đó còn vụng về của ông ("Em đẹp như một bông hoa, và cũng thơm nữa, anh có thể hái được chăng?") Trong một lá thư ông gửi kèm một bức ảnh chụp ông đang ngồi trên một quả bom với một điếu thuốc lá phì phèo trên môi.
Theo thời gian, những lá thư của ông dần trở nên ngắn hơn và thưa hơn. Đến thập niên 1950 có lẽ mỗi năm có một lá thư. Phong bì cuối cùng đề tháng Tư năm 1963; bên trong không có lá thư nào, chỉ có vài bức ảnh. Hai bức là của Emma, những bức ảnh cô đã gửi cho ông được ông gửi trả lại. Bức ảnh thứ nhất được gửi sớm hơn cả - một bức ảnh chụp đùa vui để đáp lại bức ảnh của ông - trong đó cô đang gọt khoai tây và giả bộ hút thuốc bằng một trong những cái tẩu của bà Peregrine. Bức ảnh tiếp theo buồn hơn, và tôi đoán cô đã gửi nó đi sau khi ông tôi không viết lá thư nào suốt một thời gian dài. Bức ảnh cuối cùng - trên thực tế là thứ cuối cùng ông tôi từng gửi cho Emma - cho tôi thấy ông ở tuổi trung niên, đang bế một cô bé.
Tôi phải mất một phút nhìn chăm chăm vào bức ảnh cuối cùng mới nhận ra cô bé đó là ai. Đó là cô Susie của tôi, lúc ấy có lẽ khoảng bốn tuổi. Sau đó không có thêm lá thư nào nữa. Tôi tự hỏi Emma đã tiếp tục viết thư cho ông nội tôi trong bao lâu nữa mà không nhận được hồi âm, và ông đã làm gì với những lá thư của cô. Đã ném chúng đi? Hay giấu chúng vào đâu đó? Hẳn bố tôi và cô Susie đã tìm thấy một trong những lá thư đó hồi còn nhỏ, và nó đã làm họ nghĩ bố mình là một kẻ dối trá lừa gạt. Họ đã lầm biết chừng nào.
Nghe thấy một tiếng đằng hắng vang lên thật rõ sau lưng mình, tôi bèn quay lại thì thấy Emma đang chằm chằm nhìn vào từ ngưỡng cửa. Tôi bò nhoài ra để nhặt nhạnh các lá thư lại, mặt đỏ bừng, song đã quá muộn. Tôi đã bị bắt quả tang.
"Tớ xin lỗi. Đáng ra tớ không nên vào đây."
"Cái đó tôi quá rõ chứ", cô nói, "nhưng dù sao đi nữa, đừng để tôi làm gián đoạn việc đọc của cậu." Cô đùng đùng bước tới chỗ cái tủ ngăn kéo, lôi một ngăn kéo ra rồi ném nó rơi đánh rầm xuống sàn. "Trong khi làm việc đó sao cậu không ngắm qua luôn cả quần lót của tôi đi này!"
"Tớ thực sự, thực sự xin lỗi", tôi nói. "Tớ chưa bao giờ làm chuyện thế này."
"À, tôi cũng không lạ. Còn mải nhòm trộm qua cửa sổ phòng phụ nữ mà, tôi đoán vậy!" Cô đứng cúi xuống tôi, run lên vì tức giận, trong khi tôi loay hoay cố xếp trả lại tất cả chỗ thư vừa khít vào trong hộp.
"Chúng được xếp theo hệ thống, cậu ạ. Đưa chúng đây, cậu đang làm lộn tung mọi thứ lên rồi!" Cô ngồi xuống đẩy tôi sang bên, đổ hết mọi thứ trong hộp ra sàn và phân loại các lá thư ra thành từng chồng với tốc độ của một nhân viên bưu điện. Nghĩ rằng tốt nhất là nên im lặng, tôi ngoan ngoãn theo dõi trong lúc cô làm việc.
Khi đã dịu lại đôi chút, Emma nói, "Vậy là cậu muốn biết về Abe và tôi, phải không nào? Muốn biết thì chỉ cần hỏi là được."
"Tớ không muốn tọc mạch."
"Điều đó thì giờ còn phải tranh luận mới biết được nhỉ?"
"Tớ đoán vậy."
"Thế nào? Cậu muốn biết điều gì?"
Tôi ngẫm nghĩ về chuyện đó. Tôi thực sự không biết nên bắt đầu từ đâu. "Chỉ là... chuyện gì đã xảy ra vậy?"
"Thế thì được, chúng ta sẽ bỏ qua hết những đoạn hay ho và đi thẳng tới hồi kết. Đơn giản thôi, thật đấy. Anh ta rời đi. Anh ta nói yêu tôi và hứa sẽ trở lại một ngày nào đó. Nhưng rồi chẳng bao giờ trở lại."
"Nhưng ông buộc phải đi, đúng không? Để chiến đấu?"
"Buộc phải đi ư? Tôi không biết. Anh ta nói không thể tha thứ cho mình nếu cứ giương mắt nhìn cuộc chiến trong khi đồng bào đang bị săn đuổi và tàn sát. Nói rằng đó là bổn phận của anh ta. Tôi đoán với anh ta bổn phận quan trọng hơn tôi. Dù thế nào đi nữa, tôi đã đợi. Tôi đã đợi và lo lắng qua suốt cuộc chiến tranh khủng khiếp ấy, cứ mỗi lá thư đến tôi lại sợ rằng đó là tin báo tử. Sau đó khi chiến tranh cuối cùng cũng kết thúc, anh ta nói không thể quay trở lại nữa. Bảo là nếu quay về anh ta sẽ hóa điên mất. Nói anh ta đã học được cách tự vệ trong quân đội và không còn cần một cô bảo mẫu như Chim trông nom nữa. Anh ta sẽ tới Mỹ tạo lập một trại trẻ cho chúng tôi, rồi sau đó sẽ báo tin cho tôi. Vậy là tôi đợi thêm nữa. Tôi đợi lâu đến mức nếu thực sự đi cùng anh ta hẳn khi đó tôi đã bốn mươi tuổi rồi. Đến lúc đó anh ta đã lập gia đình với một người bình thường. Và, như người ta nói, thế là hết."
"Tớ xin lỗi. Tớ không hề biết."
"Đó là một câu chuyện cũ rồi. Tôi không còn bận tâm nhiều về nó nữa."
"Cậu trách ông về việc bị mắc kẹt ở đây", tôi nói.
Emma trừng mắt nhìn tôi. "Ai nói là tôi bị mắc kẹt?" Rồi cô thở dài. "Không, tôi không trách anh ấy. Chỉ nhớ anh ấy thôi."
"Đến tận bây giờ sao?"
"Mỗi ngày."
Cô hoàn tất việc sắp xếp thư. "Vậy là cậu biết rồi đấy", cô vừa nói vừa đậy nắp hộp lên chồng thư. "Toàn bộ câu chuyện về mối tình của đời tôi nằm trong một cái hộp phủ bụi để trong tủ tường." Cô buông tiếng thở dài rồi nhắm mắt lại và bóp sống mũi. Trong khoảnh khắc, tôi gần như có thể thấy một bà lão ẩn đằng sau những đường nét tươi trẻ của cô. Ông nội tôi đã giẫm nát trái tim héo mòn tội nghiệp của cô, và vết thương vẫn còn há miệng, cho dù sau bấy nhiêu năm.
Tôi định đưa tay ôm quanh người cô, nhưng điều gì đó đã ngăn tôi lại. Đây là một cô gái xinh đẹp, vui nhộn, mê hoặc, và thật kỳ diệu làm sao, dường như thực sự thích tôi. Nhưng giờ tôi đã hiểu người cô thích không phải là tôi. Cô đã tan vỡ trái tim vì một người khác, và tôi chỉ đơn thuần là người thế thân cho ông nội. Chừng đó là đủ để bất cứ ai dừng lại, tôi không cần quan tâm liệu người đó có đang hăm hở đến đâu. Tôi biết có những người cảm thấy ý tưởng hẹn hò bồ cũ của bạn mình thật không chấp nhận nổi. Theo thang giá trị đó, hẹn hò với bạn gái cũ của ông nội bạn có thể coi là loạn luân.
Điều tiếp theo tôi biết là bàn tay Emma đang đặt lên cánh tay tôi. Rồi cô tựa đầu lên vai tôi, và tôi có thể cảm thấy cằm cô đang dịch dần về phía mặt tôi. Có thể cho rằng đây là thứ ngôn ngữ cơ thể để nói "hãy hôn tôi đi". Sau một phút nữa mặt chúng tôi sẽ kề nhau, và tôi sẽ phải chọn giữa khóa môi hay xúc phạm cô nghiêm trọng bằng việc chối từ, mà tôi vốn đã xúc phạm cô một lần rồi. Không phải là tôi không muốn hôn Emma - tôi muốn thế hơn bất cứ điều gì khác - nhưng ý tưởng ôm hôn cô chỉ cách cái hộp đựng đầy những bức thư tình được gìn giữ cẩn thận tới mức thái quá của ông nội tôi có nửa mét làm tôi có cảm giác kỳ dị và bối rối.
Rồi má cô áp vào má tôi, và tôi biết đã đến thời khắc hành động, vậy là tôi nói ra thứ đầu tiên xuất hiện trong đầu mình có thể làm tắt ngấm cảm xúc.
"Giữa cậu và Enoch có gì không?"
Emma vụt lùi ra xa ngay lập tức, nhìn tôi như thể tôi vừa đề nghị hai chúng tôi ăn tối bằng thịt chó con vậy. "Cái gì?! Không! Từ đâu cậu lại có ý tưởng quái đản như thế chứ?"
"Từ cậu ta. Cậu ta nghe có vẻ cay cú khi nói về cậu, và tớ có trực cảm là cậu ta không muốn tớ có mặt ở đây, như thể tớ đang chọc gậy bánh xe vào trò chơi của cậu ta hay điều gì đó tương tự vậy."
Đôi mắt Emma tiếp tục mở to ra. "Thứ nhất, cậu ta chẳng có 'trò chơi' nào để ai có thể 'chọc gậy bánh xe' cả, tôi có thể đoan chắc với cậu như thế. Cậu ta là một gã ngốc ghen tuông và một kẻ dối trá."
"Có thật cậu ta thế không?"
"Thế nào cơ?"
"Là một kẻ dối trá."
Emma nheo mắt lại. "Sao chứ? Cậu ta đang bày ra trò vớ vẩn gì đây?"
"Emma, chuyện gì xảy ra với Victor vậy?"
Trông cô có vẻ sốc. Sau đó, vừa lắc đầu, cô vừa lẩm bẩm, "Quỷ tha ma bắt thằng nhóc ích kỷ đó đi."
"Có một điều không ai ở đây chịu nói cho tớ biết, và tớ muốn biết nó là gì."
"Tôi không thể", cô nói.
"Đó là tất cả những gì tớ từng được nghe! Tớ không thể nói về tương lai. Cậu không thể nói về quá khứ. Bà Peregrine đã buộc chặt tất cả chúng ta. Nguyện vọng cuối cùng của ông nội là muốn tớ tới đây và tìm ra sự thật. Chẳng lẽ điều đó không có ý nghĩa gì sao?"
Emma cầm lấy bàn tay tôi kéo vào lòng và nhìn xuống nó. Dường như cô đang tìm lời thích hợp. "Cậu nói đúng", cuối cùng cô lên tiếng. "Có một chuyện."
"Kể cho tớ đi."
"Không phải ở đây", cô thì thầm. "Để tối nay."
Chúng tôi thỏa thuận sẽ gặp nhau vào lúc tối muộn, khi bố tôi và bà Peregrine đã ngủ. Emma nhất quyết nói đó là cách duy nhất, vì tai vách mạch rừng và chúng tôi không thể cùng nhau lẩn đi đâu ban ngày mà không gây nên nghi ngờ. Để hoàn tất ấn tượng sai lầm là chúng tôi không có gì để giấu giếm, Emma và tôi dành cả phần còn lại của buổi chiều tha thẩn ngoài sân trong tầm mắt của tất cả mọi người, và khi mặt trời bắt đầu lặn, tôi đi bộ quay lại đầm lầy một mình.
***
Lại thêm một tối mưa tầm tã nữa ở phía thế kỷ hai mươi mốt, và đến khi về tới quán rượu, chỉ nguyên việc được ở trong một nơi khô ráo cũng đủ khiến tôi lấy làm mừng. Tôi tìm thấy bố đang một mình ngồi nhâm nhi vại bia tại một cái bàn, vậy là tôi kéo ghế ngồi xuống rồi bắt đầu dựng lên những câu chuyện về ngày hôm nay của mình trong khi dùng khăn ăn lau khô mặt. (Tôi bắt đầu khám phá ra một điều về việc dối trá: càng thực hành nó nhiều, nó sẽ càng dễ dàng hơn.)
Bố tôi thậm chí hầu như chẳng buồn lắng nghe. "Hừm", ông nói, "thú vị đấy", rồi sau đó ánh mắt ông lại rời đi nơi khác, và ông uống tiếp một ngụm bia nữa.
"Có chuyện gì với bố vậy?" tôi hỏi. Bố vẫn còn giận con à?"
"Không, không, không có chuyện đó đâu." Ông có vẻ định giải thích nhưng rồi lại gạt đi. "À, nó thật ngớ ngẩn."
"Bố. Nói cho con nghe đi nào."
"Chỉ là... người này xuất hiện mấy ngày trước. Một người quan sát chim nữa."
"Bố quen người đó ạ?"
Ông lắc đầu. "Chưa bao giờ nhìn thấy người này trước đây. Thoạt đầu, bố nghĩ anh ta chỉ là một tay nghiệp dư có hứng thú, nhưng anh ta cứ liên tục tìm đến cùng những địa điểm, cùng những bãi làm tổ, rồi ghi chép. Chắc chắn anh ta biết mình đang làm gì. Thế rồi hôm nay bố thấy anh ta mang theo một lồng bẫy và một cặp Predator, vì thế bố biết anh ta là dân chuyên nghiệp."
"Predator?"
"Ống nhòm. Loại cực kỳ chuyên nghiệp." Cho đến giờ, bố tôi đã cuộn thật chặt cái khăn giấy lót đĩa của mình rồi lại vuốt phẳng nó ra được ba lần, một thói quen mỗi khi bồn chồn. "Chỉ có điều bố cứ tưởng bố đã giành được cơ hội khám phá quần thể chim này rồi, con biết không? Bố thực sự muốn cuốn sách này trở thành điều gì đó đặc biệt."
"Và rồi gã thối tha này xuất hiện."
"Jacob."
"Ý con là gã mắc dịch vô tích sự này."
Bố tôi bật cười. "Cảm ơn con trai, nghe được đấy."
"Cuốn sách sẽ đặc biệt", tôi quả quyết nói.
Ông nhún vai. "Bố không biết nữa. Hy vọng là vậy." Nhưng nghe giọng bố tôi có vẻ không gì chắc chắn lắm.
Tôi biết chính xác chuyện gì sắp diễn ra. Đó là một phần của cái vòng luẩn quẩn bệnh hoạn bố tôi bị mắc kẹt vào. Ông trở nên thực sự say mê với một dự án nào đó, nói về nó liên tu bất tận trong hàng tháng liền. Sau đó, không tránh khỏi, một vấn đề tí xíu nào đó sẽ xuất hiện và gây trắc trở, rồi thay vì giải quyết nó bố tôi lại để nó hoàn toàn khống chế mình. Điều tiếp theo bạn được biết là dự án sẽ bị chấm dứt, và ông sẽ nhảy sang dự án kế tiếp, và cái vòng lại bắt đầu. Bố tôi bị ngã lòng quá dễ dàng. Đó là lý do ông có cả tá bản thảo chưa hoàn tất khóa kín trong ngăn kéo bàn làm việc, và lý do tại sao cửa hàng bán chim ông cùng cô Susie định mở chẳng bao giờ trở thành hiện thực và tại sao bố tôi có bằng cử nhân về ngôn ngữ châu Á nhưng chưa bao giờ đến châu Á. Ông đã bốn mươi sáu tuổi mà vẫn đang cố gắng tìm kiếm bản thân mình, cố gắng chứng minh ông không cần tới tiền của mẹ tôi.
Điều ông thực sự cần là một cuộc trò chuyện để cổ vũ tinh thần, mà tôi không cảm thấy mình đủ khả năng để dành nó cho ông, vậy là tôi cố khéo léo thay đổi chủ đề. "Kẻ quấy rối này đang ở đâu ạ?" tôi hỏi. "Con nghĩ thị trấn có phòng nào cho thuê thì bố con mình đã thuê hết rồi."
"Bố đoán anh ta cắm trại", bố tôi đáp.
"Trong thời tiết này sao?"
"Đó là phong cách của một tay đam mê điểu cầm học cứng cựa. Điều kiện khó khăn giúp ta gần gũi hơn với đối tượng của mình, cả về thể chất và tâm lý. Thành công qua nghịch cảnh, những thứ kiểu đó."
Tôi bật cười. "Thế sao bố không ra ngoài đó?" tôi nói, rồi lập tức ước gì đừng nói như vậy.
"Bởi cùng lý do khiến nhiều khả năng cuốn sách của bố sẽ không ra đời. Luôn có ai đó tận tâm hơn bố."
Tôi bối rối cựa mình trên ghế. "Con không có ý định đó. Ý con là..."
"Suỵt!" Bố tôi cứng người lại, lén nhìn ra phía cửa. "Liếc nhanh vào nhưng đừng lộ liễu quá. Anh ta vừa bước vào đấy."
Tôi cầm tờ thực đơn lên che mặt và nhìn qua phía trên tờ giấy. Một người đàn ông bộ dạng bẩn thỉu luộm thuộm để râu đang đứng trên ngưỡng cửa, giũ nước từ trong ủng ra. Ông ta đội mũ đi mưa, đeo kính đen và mặc trên người thứ gì đó có vẻ như vài chiếc áo khoác chồng lên nhau chiếc này ngoài chiếc kia, làm ông ta trông vừa béo vừa có vẻ ăn xổi ở thì.
"Con thích bộ dạng ông già Noel vô gia cư ông ta trưng ra", tôi thì thầm. "Một vẻ bề ngoài khó rời mắt nổi. Rất đi trước thời trang."
Bố tảng lờ tôi. Người đàn ông khệnh khạng đi tới chỗ quầy bar, và những cuộc trò chuyện xung quanh ông ta chợt hơi lặng xuống. Kev hỏi vị khách muốn gì, người đàn ông nói gì đó và Kev đi vào trong bếp. Ông ta nhìn chằm chằm thẳng về phía trước trông khi chờ đợi, và một phút sau Kev quay trở ra, đưa cho vị khách này một túi đựng đồ ăn. Ông ta cầm lấy, ném vài tờ bạc xuống quầy bar, rồi đi ra cửa. Trước khi rời đi, ông ta quay lại chậm rãi nhìn quanh phòng. Rồi sau một hồi lâu, ông ta rời đi.
"Anh ta hỏi mua gì vậy?" bố tôi lớn tiếng hỏi sau khi cánh cửa đã đóng sập lại.
"Bíp tết", Kev đáp. "Nói anh ta không quan tâm chúng được nướng thế nào, vậy là anh ta lấy chúng sau khi mỗi mặt được nướng mười giây. Và chẳng phàn nàn gì."
Mọi người bắt đầu xì xào bàn tán, âm lượng những cuộc trò chuyện của họ lại tăng lên.
"Bíp tết sống", tôi nói với bố. "Bố phải thừa nhận là chuyện này hơi quái lạ, kể cả với một nhà điểu cầm học."
"Có thể anh ta là người thích ăn đồ sống", bố tôi đáp.
"À vâng. Hoặc có thể ông ta đã phát chán với việc sống bằng máu cừu."
Bố tôi đảo mắt. "Người này hẳn là có bếp nấu dã ngoại. Có thể anh ta chỉ thích nấu ăn ngoài trời thôi."
"Trong mưa sao? Mà sao bố cứ phải bênh vực ông ta vậy nhỉ? Con nghĩ ông ta là kẻ thù không đội trời chung của bố cơ mà."
"Bố không hy vọng con sẽ hiểu", ông nói, "nhưng con không lôi bố ra làm trò cười nữa cũng là tốt lắm rồi." Và ông đứng dậy đi tới chỗ quầy bar.
***
Vài giờ sau, bố tôi loạng choạng leo lên lầu, sặc sụa mùi rượu, và lăn kềnh ra giường. Ông ngủ ngay lập tức, ngáy to khủng khiếp. Tôi vớ lấy một cái áo khoác và ra ngoài đi gặp Emma, không cần phải lén lút nữa.
Các con đường đều vắng tanh và im ắng tới mức ta gần như có thể

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#kinhdi